AM MÂY NGỦ
LỜI NHÀ XUẤT
BẢN
Truyện Am Mây Ngủ tuy nói về công chúa
Huyền Trân nhưng ở đây h́nh ảnh công chúa
Huyền Trân không thể tách rời ra khỏi h́nh ảnh
của người tăng sĩ áo vải sống trên am
Ngoạ Vân núi Yên Tử. Người ấy là Trúc Lâm
đại sĩ, tổ thứ nhất của thiền
phái Trúc Lâm.
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm
đại sĩ đă từng làm vua nước
Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông,
người đă từng đẩy lui cuộc xâm lăng
của quân Mông Cổ. Từ ngày xuất gia, Trúc Lâm đă
sống đời khổ hạnh, mặc áo vải sô,
ngủ am lá, và đi chân đất. Ông đă tu như
thế trên mười năm trời, trong khi vẫn không
quên tiếp tục xây dựng và bồi đắp nền
đạo đức và văn hóa dân tộc. Ông đă du
hành sang đất Chiêm để thắt chặt t́nh
hữu nghị Chiêm Việt, mong dựng nên một nền
ḥa b́nh lâu dài giữa hai nước. Công chúa Huyền
Trân con gái của ông đă tự nguyện làm một
trong những viên gạch đầu tiên cho nền móng ḥa
b́nh.
Trong Am Mây Ngủ, tác giả đă lấy ḷng
của một Thiền sư để hiểu ḷng một
vị Thiền sư. Đó là nét cảm động
nhất trong tác phẩm mà Lá Bối trân trọng giới
thiệu với các độc giả thân mến hôm nay.
CHƯƠNG I
Huyền Trân thức giấc, lắng tai nghe.
Có tiếng tụng kinh. Đây là tiếng tụng kinh
của chú tiểu Pháp Đăng. Giọng chú trong như
tiếng chuông đồng, Chú đang khoan thai tụng bài
kệ mở đầu cho thần chú Lăng Nghiêm,
từng âm rành rọt và trong veo như những hạt châu
tiếp nhau rơi đều trong không gian ngời sáng.
"Đại hùng đại lực đại từ bi,
hy cánh thẫm trừ vi tế hoặc: Linh ngă tảo
đăng vô thượng giác, ư thập phương
giới tọa đạo tràng ...".
Huyền Trân nằm yên, để hết tâm
ư vào lời kinh. Công chuá cảm thấy toàn thân thư thái và
dễ chịu. Có lẽ đây là lần đầu tiên nàng
được hưởng một cảm giác an lạc
kỳ diệu như vậy. Công chúa không dám trở ḿnh,
sợ rằng nếu trở ḿnh th́ niềm an lạc kia
biến mất. Nàng thở nhè nhẹ, nhắm hai mắt
lại và theo dơi lời kinh một cách chăm chú.
Chú Pháp Đăng đă tụng hết bài
tựa và đang chuyển sang hội thứ nhất
của chú Lăng Nghiêm. Nhịp mơ tự nhiên mau dần,
trở nên dồn dập rồi giọng chú thay đổi
hẳn. Chú Lăng Nghiêm như một cánh diều bắt
gió và lời kinh giờ đây bay như một lá
phướn. Tiếng mơ cũng không c̣n là âm thanh tṛn
trịa và rời rạc như trước: Tiếng mơ
cũng trở thành một giải lụa dài bay phất
phới trong không gian.
Khi chú Pháp Đăng tụng hết Lăng
Nghiêm và bắt đầu qua tới Chú Đại Bi th́
Huyền Trân không c̣n theo dơi lời kinh nữa. Nàng nghĩ
đến Phụ vương nàng hiện giờ chắc
đang ngồi thiền trên am Ngọa Vân và đến
chuyện hai cha con sẽ cùng nhau leo núi lên đỉnh Vân
Tiêu ngày hôm nay, và công chúa từ từ ngồi dậy.
Liêu pḥng tối om. Ngọn lửa cây đèn
dầu lạc để trong góc pḥng chỉ lớn
bằng một hạt đâu không đủ để soi
sáng mặt bàn. Huyền Trân khua chân t́m đôi giép cỏ mà
chú Pháp Đăng đă đem tới cho nàng chiều hôm qua
rồi đứng dậy, tới khơi cao ngọn
đèn. Trong liêu pḥng, ngoài cái bàn con và chiếc giường
nhỏ, không c̣n có một vật ǵ nữa cả. Nàng
đưa tay với lấy chiếc áo lông cừu vắt
dưới chân giường, khoác lên vai, rồi hé cửa
liêu và bước ra ngoài sân am.
Bây giờ là mới đầu canh năm,
trời c̣n tối lắm, nhưng nhờ có ánh sao nên
Huyền Trân thấy được dáng đá và dáng cây quanh
am. Nàng nh́n lên trời. Sao nhiều qua, và sáng quá. Hơi núi
làm công chúa rùng ḿnh, ớn lạnh. Nàng trở vào liêu pḥng, và
cứ để áo lông cừu trên vai mà nằm lại
xuống giường để tiếp tục nghe kinh. Chú
Pháp Đăng đă tụng xong Thập Chú. Chú đang
niệm danh hiệu Phật Thích Ca.
Huyền Trân lên tới núi Yên Tử từ
sáng hôm qua và đă được gặp mặt Phụ
vương nàng là đại sĩ Trúc Lâm. Nàng đă
được hầu chuyện với ngài từ
đầu giờ Tỵ đến cuối giờ Mùi. Hôm
qua, nàng đă được ông anh ruột của ḿnh là
Huệ Vơ
Phụ vương nàng bảo nàng tá túc
tại am Long đêm nay và dặn chú điệu Pháp
Đăng sáng ngày mai đưa nàng lên thăm am Ngọa
Vân. Ngài sẽ đợi nàng ở đây. Ngài phải
trở lên am Ngọa Vân v́ có chút việc cần thiết.
Nói xong, đại sĩ lên đường, chiếc
gậy trúc trên tay.
Huyền Trân nhớ lại giây phút
được gặp lại cha sau hơn hai năm xa cách.
Hai năm xa cách, nhưng bao nhiêu biến đổi đă
xảy đến cho nàng. Khi vị tiểu ni vào thông báo,
Phụ vương nàng đă ra tận cổng am để
đón nàng. Thượng hoàng hơi gầy yếu, nhưng
dàng điệu ngài con quắc thước và thanh tú. Ngài
nh́n nàng với đôi mắt vừa mừng rỡ vừa
xót thương. Ngài vẫn c̣n mặc chiếc áo nâu năm
trước, tuy chưa sờn rách nhưng đă phai màu.
Công chúa muốn chạy tói ôm lấy cha ḿnh, nhưng không
dám. Nàng chạy đến và quỳ xuống dưới
chân ngài. Nàng khóc thút thít như một đứa trẻ
thơ. Đại sĩ đỡ nàng dậy và đưa
nàng vào trong am. Vị tiểu ni đi nhắc một
chiếc ghế gỗ đạt gần chiếc ghế
khúc lục của đại sĩ để công chúa
ngồi, rồi cùng Thị Ngọc đứng hầu
một bên ông thầy tu mà cả nước kính
ngưỡng. Trúc Lâm đại sĩ tự ḿnh đi nhóm
lửa pha trà để đăi khách. Ngài không cho ai
động tới công việc. Vị tiểu ni, sau khi
uống xong chén trà cúc do đại sĩ ban cho, đă
chắp tay bái biệt ngài để xuống núi. Công chúa
Huyền Trân cũng bảo Thị Ngọc theo vị ni cô
xuống núi và ở lại ni viện chờ nàng.
Đợi con uống xong chén trà cúc thứ
hai, Trúc Lâm mới hỏi:
- Con leo núi có mệt không?
Huyền Trân nh́n cha:
- Tâu Thượng hoàng, con thấy trong
người rất khỏe. Cảnh vật trên này
đẹp lắm.
Đại sĩ cười rất hiền:
- Con đừng gọi ta là Thượng
hoàng nữa. Cứ gọi ta là cha. Ta đi tu đă lâu; trên
mười năm ta đă làm ông thầy tu áo rách. Con hăy
tập gọi ta là thầy và dùng câu "bạch
thầy" cho quen đi. Sau này, trong những lúc có
nhiều người, con cũng có thể gọi ta là tôn
đức hay đại sĩ như những người
khác thường gọi.
- Thưa cha, con sẽ vâng lời cha dạy.
Con mong ước sau này được cha chỉ bày cho con
về Phật pháp; con muốn được làm đệ
tử của cha, và được gọi cha là thầy
của con.
Trúc Lâm đại sĩ nh́n con, bằng ḷng, vừa
lúc ấy một chú tiểu, khoảng mười một
tuổi, mặt mày sáng sủa, vai mang một đảy
đựng đầy kinh sách, xuất hiện
trước cửa am. Chú chắp tay, kích cẩn chào.
Đại sĩ cho Huyền Trân biết đó là chú Pháp
Đăng, đệ tử trẻ nhất của ngài. Chú
vừa lên am Thạch Thất để lấy kinh sách
về học. Ngài bảo chú nghỉ ngơi chốc lát
trước khi đi sửa sọn bữa ngọ trai cho
ba người. Rồi ngài đưa công chúa ra trước
hiên am. Hai người ngồi trên những chiếc gỗ
kê dưới mái lá. Ngài bảo công chúa kể cho ngài về
mọi cớ sự đă xảy ra từ ngày công chúa
về Chiêm theo chồng.
CHƯƠNG
II
Đối với một người như
Phụ vương nàng, Huyền Trân không thể kể
lể dài ḍng. Trúc Lâm đại sĩ đă từng thăm
viếng Chiêm Thành và đă lưu lại kinh đô Trà Bàn
của nước này hơn bảy tháng trời. Trong
thời gian đó, ngài đă làm người thượng
khách của vua Chàm. Ngài đă t́m hiểu về nếp
sống văn hóa và phong tục của vương quốc
này và đă đem ḷng yêu mến
Phụ vương nàng mở đầu
chuyến du Chiêm vào tháng ba năm Tân Sửu, tức là
bảy năm về trước. Ngày từ biệt kinh
đô Phật Thệ ngài đă hứa với Harijit là
sẽ gả Huyền Trân, đứa con gái yêu quư của
ngài cho chàng. Hồi đó công chúa mới mười bốn
tuổi. Ngài đă nói với Harijit rằng công chúa c̣n bé lắm,
và chàng hăy đợi tới lúc công chúa lên mười tám
mới nên cho phái bộ về Thăng Long để làm
lễ vấn danh. Huyền Trân c̣n nhớ cái ngày
Thượng hoàng đi Chiêm thành về. Đó là vào tháng
mười một năm Sửu, khí trời đă rét
lắm. Trước khi về núi Yên Tử, Thượng
hoàng đă ghé lại kinh sư đàm đạo thật lâu
với vua Anh Tông, anh cả của nàng. Có lẽ hai
người đă nói nhiều về chính sách ngoại giao
Chiêm Việt. Hôm huynh vương mở tiệc chay cúng
dường Thượng hoàng, công chúa và anh nàng là Huệ Vơ
Ngay chiều hôm sứ thần Chiêm Thành cùng
phái bộ dâng lễ vật cầu hôn của Chàm, vua Anh
Tông đă về cung Thánh Từ báo liền cho Thái hậu
Tuyên Từ biết.
Lúc đó công chúa đang đứng hầu
ngay bên Thái hậu mà cũng không được anh ḿnh ban
cho lấy một lời. Công chúa biết đây là việc
đại sự quốc gia, ḿnh không có quyền lạm
bàn, dù việc có liên quan tới thân mạng ḿnh đi
nữa. Vua chỉ nh́n nàng hồi lâu mà không nói ǵ. Một lát
sau, thu hết can đảm, công chúa hỏi: "Vậy
huynh vương đă nhận lời chưa?". Hỏi
xong câu hỏi, công chúa ngước nh́n Thái hậu th́
gặp hai con mắt rất đổi nghiêm nghị
của bà. Nàng sợ sệt cúi đầu, nhưng vua Anh
Tông đă dịu dàng nói: "Chưa, việc này trọng
đại lắm, ta phải hỏi ư quần thần
mới được".
Sáng hôm sau, vua Anh Tông thiết triều
để nghị luận về việc cầu hôn của
vua Chàm. Buổi trưa hôm ấy Huệ Vơ
Nghe anh Quốc Chẩn thuật tới
đó. Huyền Trân liền rút lui về pḥng nàng. Số
phận công chúa như thế là đă định. Hết
rồi những ngày thơ ấu. Hết rồi những
ngày vô tư cười đùa dưới mái cung quen
thuộc. Hết rồi những mơ ước
thường t́nh. Một nàng công chúa sinh ra là để
đền trả công ơn đất nước. Cũng
không khác ǵ một vị hoàng tử phải can đảm
ra gánh vác trách vụ của một
Tối hôm đó, công chúa được vua
Anh Tông gọi đến vỗ về và khích lệ. Công chúa
nghiêng đầu chăm chú nghe những lời dạy
bảo của anh. Chưa bao giờ vua Anh Tông dàng cho nàng
nhiều th́ giờ như thế. Vua nói sang năm,
đến ngày công chúa vu quy, vua sẽ cho phép ngàng đem theo
bất cứ người hầu cận nào mà nàng ưng ư
và vua cũng sẽ chọn nàng một thị nữ
gốc Chàm để lo việc thông dịch cho nàng trong
những tháng đầu. Vua khuyên nàng từ ngày mai nên
bắt đầu học tiếng Chiêm Thành và hứa sẽ
t́m cho nàng một vị giáo thọ trong số những
người học sĩ Chàm có mặt ở kinh đô. Vua
lại nói rằng thế nào những liên lạc ngoại
giao Chiêm Việt cũng sẽ trở thành khắn khít trong
tương lai và có thể Thượng hoàng sẽ có
dịp đi vân du sang Chiêm trong vài năm tới. Công chúa
hỏi anh và chuyện nhượng địa. Vua nói
rằng việc vua Chàm có ư định dâng hai châu Ô và Ri là do
từ ư vua ấy đề nghị để bày tỏ
thiện chí muốn xây dựng t́nh hữu nghị giữa
hai nước chứ không phải chuyện mua bán. Việc
này không ảnh hưởng ǵ đến quyết
định của Thượng hoàng ngày trước,
cũng không ảnh hưởng ǵ đến quyết
định hôm nay của vua. Trong triều có người v́
tham đất nên tán thành chuyện thông gia giữa hai
nước, nhưng riêng vua, vua không nghĩ như họ.
Vua rất quan tâm đến hạnh phúc của công chúa và
nghĩ rằng cuộc nhân duyên này có thể mở ra
một chân trời ngoại giao mới, có rất nhiều
hứa hẹn. Nghe vua nói thế, Huyền Trân nh́n vua
với cặp mắt biết ơn. Mấy năm gần
đân, anh Thuyên của nàng thường bận rộn v́
việc nước, ít khi có dịp nói chuyện tâm t́nh
với các em. Một lần, cách đây hơn sáu tháng, vua có
gọi Huyền Trân vào và cho nàng xem tập Thủy Vân Tùy Bút
của vua, trong đó toàn là những bài thơ và những
bức họa thủy mặc do chính vua ngự chế sau
những buổi chầu và vào những ngày tương
đối nhàn nhă. Tập này vua chưa từng cho ai xem
hết, ngoài nàng, và vua dặn đừng cho ai hay biết
là vua có vẽ và có làm thơ. Anh Thuyên của nàng vừa
thông minh vừa thận trọng nên rất được
Thượng hoàng tin cậy. Hồi trẻ, anh chỉ có
một cái tật là ưa rượu xương bồ,
dấu Thượng hoàng mà uống, và một lần
Thượng hoàng đă bắt gặp. Việc này xảy
ra vào năm Ất Mùi, lúc Huyền Trân mới được
tám tuổi. Năm đó, Thượng hoàng đang tập
sự xuất gia ở hành cung Vũ Lâm. Một hôm bất
thần ngài về kinh sư mà các quan trong triều không ai
hay biết cả. Trong lúc ấy, vua Anh Tông uống
rượu xương bồ say quá. Thượng hoàng thong
thả đi quán sát trong cung điện từ giờ Th́n
đến giờ Tỵ mà cũng không thấy vua đâu.
Nghe ngài hỏi, cung nhân liền đánh thức vua, nhưng
lúc ấy vua say quá dậy không nổi. Thượng hoàng
lập tức đi về cung Thiên Trường, xuống
chiếu cho các quan ngày mai về họp tại phủ Thiên
Trường. Măi đến quá trưa vua mới tỉnh.
Nghe cung nhận thuật lại cớ sự, vua sợ quá
vội đi ra th́ không thấy bóng ai cả. Qua tới chùa
Tư Phúc, vua gặp một người học tṛ
đại tập tên là Đoàn Nhữ Hài, liền nhờ
anh này thảo cho một tờ biểu tạ tội,
rồi hai vua tôi lấy thuyền đi về phủ Thiên
Trường. Sáng hôm sau Đoàn Nhữ Hài thay vua đội
mưa quỳ trước sân từ sáng đến
chiều để dâng biểu. Đọc biểu thấy
lời lẽ khẩn thiết, Thượng hoàng cảm
động gọi vua và bảo:
- Ta c̣n sống đây mà người c̣n dám làm
như thế, th́ khi ta chết đi cớ sự sẽ
như thế nào?
Vua dập đầu tạ tội. Từ
đó trở đi vua không động đến
rượu xương bồ.
Những năm mới làm vua, anh Thuyên của
nàng cũng c̣n ham chơi lắm. Ban ngày bận việc
triều chính, cho nên anh chỉ đi chơi ban đêm.
Cũng như Quốc Chẩn và nàng, vua không ưa bị tù
túng. Ban đêm vua thường đi chơi bằng
kiệu, thăm viếng hết mọi nơi trong kinh
kỳ. Thường thường vua có đem theo mấy
người thị vệ. Có một lần đi chơi
đến quân phường, vua gặp một bọn vô
lại đang ném đá vào nhau. Một đứa ném đá
vào đầu vua chảy máu, người hầu la lên:
- Đây là kiệu của vua, bọn bay
đừng xâm phạm.
Bọn vô lại chạy tứ tán. Hôm sau
Thượng hoàng thấy vết thương ở trán,
hỏi, vua cứ thực thà tâu lại cớ sự. Hôm
ấy vua cũng bị Thượng hoàng quở cho một
hồi.
Anh Thuyên của nàng sinh vào năm Tí, làm vua
từ lúc mười tám tuổi. Lên ngôi hồi tháng ba th́
tháng chín mẹ mất. Phủ phục bên linh sàng của
Hoàng thái hậu Khâm Từ, anh khóc đến đỏ
cả hai mắt. Huyền Trân lúc ấy cũng khóc,
nhưng công chúa cứ tin là mẹ ḿnh có thể sống
lại bất cứ lúc nào. Anh Quốc Chẩn khóc to
lớn hơn ai hết. Anh gào thét
đến nỗi Thượng hoàng phải tới nắm
vai anh thật chặt và nhẹ nhàng bảo anh khóc nhỏ
lại. Thái hậu Khâm Từ là một bà mẹ rất
ngọt ngào, thông minh và nhân từ. Đối với kẻ
dưới, bà rất rộng lượng cho nên ai cũng
yêu mến bà. Bà lại nổi tiếng là người can
đảm không ai bằng. Có một hôm bà ngồi trên
vọng lâu cùng với Thượng hoàng xem vơ sĩ đánh
thi với cọp th́ có một con cọp nhảy
được lên lầu khiến tất cả
đều hoảng sợ bỏ chạy. Lúc ấy bà
thản nhiên lấy một chiếu chiếu lên che cho vua và
ḿnh. Con cọp gầm lên nhưng không động
đến hai người, và cuối cùng nhảy xuống.
Một lần khác ngự ở điện Thiên An với
Thượng hoàng để xem tập voi ở Long Tŕ,
cũng có một con voi xông vào, định lên trên
điện. Quân hầu chạy tứ tán, chỉ có một
ḿnh bà ngồi lại với Thượng hoàng. Con voi
cuối cùng rồi không xông lên điện. Bà thật
xứng đáng là con gái của Hưng Đạo
Sau khi mẹ của công chúa mất th́ bà d́
của nàng được phong làm Thái hậu Tuyên Từ.
Liền sau đó, anh Quốc Chẩn cũng
được phong làm Huệ Vơ Đại Vương. Anh
mới mười ba tuổi, công chúa nhớ rất rơ ngày
lễ phong vương của anh Chẩn. Súng sính trong
bộ áo măo lịch kịch và nặng nề, anh Quốc
Chẩn của nàng tập đi từng bước
chậm răi và đường bệ, trông tức
cười làm sao. Mặt anh ấy bí xị gần như
muốn khóc. Anh Chẩn chỉ ưa chạy nhảy, leo
trèo và đánh nhau với các vương tôn cùng lứa. Thái
hậu Tuyên Từ rất nghiêm khắc. Tuy bà có
thương yêu ba anh em nàng thật nhưng không ai dám dễ
ngươi với bà. Anh Thuyên đă làm vua mà cũng sợ
bà thin thít; bà nói ǵ anh cũng vâng lời răm rắp. Có
lần Thượng hoàng nói với anh:
- Ngày trước quần thần
thường xưng tụng ta là một ông hiếu hoàng,
thực ra quan gia mới xứng đáng danh hiệu đó.
Thượng hoàng gọi vua là "quan
gia". Có một bữa Huyền Trân hỏi "quan
gia" là ǵ, ngài nói:
- Quan gia là người biết xem đất
nước là của công chứ không phải là của riêng
ḿnh và xem cả thiên hạ là nhà của ḿnh.
Mặc dù Thái hậu Tuyên Từ dạy
dỗ rất nghiêm, Huyền Trân vẫn không bỏ
được tính nết tinh nghịch của ḿnh.
Vắng mặt bà, nàng vẫn cứ đùa giỡn thỏa
thích. Tuy tinh nghịch nhưng không bao giờ nàng rắn
mắt cho nên các cung nhân thường cưng quư nàng và không
bao giờ mách lại với Thái hậu. Anh Quốc
Chẩn của nàng cũng thường hay kéo nàng tới
tham dự những cuộc chơi mà anh tổ chức
với các vương tôn công tử cùng lứa tuổi. Anh
thường rủ nàng sang sân chùa Từ Phúc chơi, và ngoài
th́ giờ học hành hai anh em thường t́m tới
dưới bóng mát của những cây tùng, cây bách phía sau chùa
để nô đùa cùng các bạn.
Năm Huyền Trân được
mười ba tuổi th́ hoàng tử Mạnh sanh. Hoàng
tử Mạnh là con vua
Năm sau Thượng hoàng đi du hóa ở
Chiêm Thành. Khi trở về ngài cho Huyền Trân biết là
ngài đă hứa gả nàng cho vua Chiêm. Ngài nói là ba bốn
năm nữa vua Chiêm mới cho người sang dâng sính
lễ. Ở xú nàng con gái lớn lên cha mẹ đặt
đâu th́ con ngồi đấy. Công chúa cúi đầu vâng
dạ, nhưng trong thâm tâm vẫn nghĩ rằng ba bốn
năm sau c̣n là chuyện xa vời.
Cho đến buổi trưa ngày anh Quốc
Chẩn nhận sính lễ, Huyền Trân mới thấy rơ
đời ḿnh đă thực sự chuyển sang một
hướng mới. Nàng đă khóc, nhưng chiều hôm
đó, vua Anh Tông đă ôn tồn dạy bảo cho nàng,
với tất cả t́nh thương của một
người anh cả cho đứa em út. Đêm đó,
Huyền Trân thao thức không ngủ. Nàng đợi cho
đến sáng để vào hầu Thái hậu Tuyên Từ,
xin phép bà để về núi Yên Tử thỉnh huấn
Thượng hoàng hiện đang tu hành trên ấy. Thái
hậu truyền lấy kiệu cho nàng đi và cho Thị
Ngọc đi theo nàng để hầu cận. Thị
Ngọc cũng suưt soát tuổi nàng và dáng người
cũng dong dỏng cao như nàng.
Ngồi trên kiệu, Huyền Trân nghĩ
đến thầy học của nàng là Văn Túc
CHƯƠNG III
Hai bên đường từ kinh sư
đến chân núi Yên Tử, những hàng thông do
Thượng hoàng ra lệnh trồng xuống từ
mười năm trước đây đă lên cao và xanh
tốt. Đó là lần đầu Huyền Trân
được về núi Yên Tử. Nàng có đức tin
rất vững chải nơi Thượng hoàng, cho nên nàng
nghĩ rằng những lời dạy của cha sẽ
rất cần thiết cho cuộc đời của nàng
sau này. May cho công chúa là lúc ấy Trúc Lâm đại sĩ v́
có Phật sự nên từ am Đỉnh Trúc trên ngọn
Ngọa Vân, đă về tới am Long Đông ở lưng
chừng núi, nên nàng không phải leo trèo nhiều.
Thượng hoàng đă nói chuyện với con thật lâu
bên bờ suối. Hai cha con ngồi trên hai phiến đá
đối diện nhau.
Phụ hoàng bảo Chiêm Thành không phải là
một nước di dịch như nhiều người
trong nước ta lầm tưởng. Chiêm Thành có một
nền văn minh khá cổ, chịu ảnh hưởng
văn hóa Tây Trúc nhiều hơn văn hóa Đông đô.
Ngài nói rằng vua Chế Mân là một thanh
niên anh tuấn, có vũ dũng mà cũng có văn học.
Tuy Harijit không biết chữ Nho nhưng chàng rất thông
thạo Phạn ngữ. Ở Chiêm Thành, Phạn ngữ
cũng quan trọng như chữ Nho ở Đại
Việt. Trong thời gian gần tám tháng lưu lại kinh
đô Phật thệ, ngài thấy cái nh́n của ngài về
nước Chàm thay đổi hẳn. Ngài rất yêu
mến Harijit, và muốn coi chàng như vua Anh Tông con ngài.
Harijit lên ngôi từ năm Ất Dậu, và đă từng có
Hoàng hậu. Đó là một nàng công chúa xứ Qua Oa tên là
Tapasi; bà đă sinh hạ được hai vị hoàng
tử, nhưng Hoàng hậu đă qua đời. Năm nay
Chế Mân mới vào khoảng bốn mươi, lớn
hơn vua Anh Tông chừng mười tuổi. Dân Chàm
rất thương yêu Harijit. Thượng hoàng bảo công
chúa:
- Ta tin rằng sau khi về Chàm con cũng
được dân chúng thương mến như họ
đă từng thương mến Harijit. Ta có thể nói
chắc với con điều đó. Nếu con để
hết tâm lực của con vào th́ con có thể xây dựng
thật nhiều cho vương quốc này và tạo
được mối cảm t́nh bền chặt giữa
hai ṇi Chiêm và Việt.
Huyền Trân nh́n gịng nước đang len
lỏi qua những tảng đá dưới ḷng suối và
nghĩ những lời nói vừa rồi của
Thượng hoàng. Lát sau, nàng nghe Thượng hoàng gọi
nàng và bảo:
- Con hăy đưa bàn tay của con lên quan sát
thử xem.
Huyền Trân đưa bàn tay trái của ḿnh
lên nh́n. Cổ tay nàng nhỏ; bàn tay nàng mịn màng và có
những ngón tay thuôn dài dịu dàng như những búp
măng non. Thượng hoàng nói tiếp:
- Con hăy nh́n thật lâu và nói cho ta biết là
con có nh́n thấy ta trong bàn tay của con không?
Công chúa đột nhiên phát giác ra rằng bàn
tay của nàng là do Thượng hoàng và Thái hậu mà có và
sự có mặt của bàn tay này không khác sự có mặt
của Thượng hoàng và Thái hậu. Cái thấy
đến với nàng mau như một tia chớp giật.
Chưa bao giờ công chúa nh́n bàn tay ḿnh với một cái
nh́n thấu triệt đến thế. Nàng thưa với
Thượng hoàng:
- Thưa Phụ hoàng, con có nh́n thấy.
- Không những ta và mẹ con có mặt nơi
bàn tay con mà cả giống ṇi và đất nước này
cũng có mặt nơi bàn tay con. Con ở đâu th́ ta
ở đó, con làm ǵ th́ ta làm cái đó và dân tộc con làm cái
đó. Con hăy ghi nhớ điều này cho cẩn thận.
Con về Chàm cũng như ta về Chàm, và ta trông cậy
hoàn toàn nơi con để tránh cho hai dân tộc những
cuộc đao binh sau này.
Những lời nói của Thượng hoàng
làm nẩy sinh một niềm thương cảm và một
sự quyết tâm nơi ḷng công chúa.
Những lời ấy cũng lại như
nước mát dội vào tâm năo căng thảng và nóng
bừng của nàng. Huyền Trân cảm thấy những lo
âu thắc mắc của ḿnh đă tiêu tán; nàng tự
nguyện sẽ làm hết sức ḿnh để khỏi
phụ ̣ng trông đợi của cha, của anh và của cả
nước. Nàng theo Thượng hoàng vào am để
lạy Phật. Nhân dịp viếng thăm này, nàng
được Thượng hoàng giới thiệu vói
một vị tăng sĩ trẻ tuổi là Pháp Loa. Ngài cho
biết đó là một vị đệ tử mới
của ngài, và ngài bảo nàng gọi ông là sư huynh. Nói
chuyện với vị sư huynh này, Huyền Trân biết
ông c̣n là sa di. Ông sẽ được thọ đại
giới vào ngày rằm tháng bảy sắp tới.
Thượng hoàng có vẻ yêu mến người
đệ tử trẻ tuổi này lắm.
Thấm thoát mà năm Ất Tỵ sắp qua
và mọi người đă chuẩn bị ăn Tết
Bính Ngọ. Cái Tết này là cái Tết quê hương
cuối cùng của ḿnh đây, Huyền Trân nghĩ. Ngày
Nguyên Đán, khi được nghe vua Anh Tông mừng
tuổi, công chúa biết là ḿnh đă lên mười chín. Vua
Anh Tông cho nàng biết là lễ cưới sẽ
được cử hành vào tháng sáu chứ không phải vào
tháng hai như đă định năm ngoái. Càng hay, nàng
lại có thêm th́ giờ để học tiếng Chàm và
để sống với tất cả tâm hồn từng
ngày từng giờ c̣n lại của cái nếp sống
Đại Việt quư báu. Bẩm tính thông minh, nàng học
tiếng Chàm rất chóng. Vị giao sư người Chàm
của nàng cũng là một nhạc sư. Ông rất
giỏi Phạn ngữ. Ông đă kể cho Huyền Trân nghe
cổ tích Mahabharata, trước tiên bằng tiếng
Đại Việt, rồi ông lặp lại bằng
tiếng Chiêm. Ông cũng đă dạy cho công chúa hát vài
bản nhạc Chiêm Thành. Ông sử dụng một cây
đàn Chiêm năm dây trong khi
Mồng mười tháng sáu năm ấy, phái
đoàn Chiêm Thành qua để làm lễ rước dâu. Phái
đoàn này rất đông, có mang theo cờ quạt, kiệu
rước, một đoàn âm nhạc và nhiều thị
nữ. Thượng hoàng có xuống núi để tiễn
đưa công chúa. Sau khi lạy Thượng hoàng, Thái
hậu Tuyên Từ và vua, công chúa lên đường. Nàng
đem theo hai người hầu, Thị Khanh và Thị
Ngọc. Công chúa không đem theo người thông ngôn bởi
v́ tiếng Chàm của nàng đă tạm đủ
để diễn đạt ư ḿnh. Nàng chỉ đem theo
một ḥm xiêm y và một ḥm sách vở, trong đó có
những tập sách Phật của Thượng hoàng biên
soạn và những tạp thi, văn và sử mà thầy
học nàng là Văn Huệ Vương ban tặng.
Cuộc hành tŕnh kéo dài hơn một tháng
trời, ngày đi đêm nghỉ. Có rất nhiều sứ
quán dọc đường, trạm nào cũng có đủ
những tiện nghi như bếp núc và lửa củi,
Huyền Trân nhớ có lần kiệu vượt một
cái đèo cao, từ trên nh́n xuống cảnh mây nước
bao la thật hùng vĩ. Đám rước càng về
tới gần kinh đô Phật Thệ th́ càng đi
chậm lại bởi v́ dân chúng tụ họp hai bên
đường đón tiếp rất đông. Cờ
biểu được trương ra và đoàn nhạc
vừa đi vừa biểu diễn đàn, sáo, tù và và
trống. May cho nàng trong những ngày ấy trời không mưa. Bây giờ mới
là tháng bảy theo lịch Đại
Việt nhưng ở đây đă là tháng tám, vào giữa mùa
gặt lúa. Trai gái làm việc giữa đồng, đông
đảo. Thấy đám rước đi qua ai cũng ngừng
tay, đứng dậy để nh́n;
hoặc nếu ruộng ở gần th́ họ chạy
lại đứng bên đường để đón
kiệu đi qua. Khi quân hầu báo là sắp
tới thành Vijaya, tức là kinh đô Phật Thệ,
Thị Khánh và Thị Ngọc bắt đầu lo việc
trang điểm lại cho công chúa. Huyền
Trân vừa hồi hộp mà cũng vừa ṭ ṃ. Nàng
luôn luôn nh́n ra ngoài kiệu để quan sát. Thỉnh
thoảng nàng thấy những ṭa tháp lớn xây dựng trên
một đỉnh đồi, kiến trúc rất lạ.
Dân chúng ăn mặc không giống như
ở Đại Việt. Có rất nhiều
người mặc xiêm y bằng lụa hai ba màu trông
rất đẹp. Nàng thấy nhiều ruộng
muối trắng xóa, tương tợ những ruộng
muối miền Hải Dương nhưng bao la hơn. Ruộng đồng cũng tương tợ
như ruộng đồng ở Đại Việt.
Nàng thấy những con đập dẫn nước vào
ruộng, và có cảm tưởng rằng dân Chàm rất am tường về nghề nông.
Từ trong thành
Vijaya, một đám rước lớn đang tiến ra
để đón phái đoàn. Một đàn voi có phủ
lụa nhiều màu, trên đầu voi những người
nài đầu chít khăn đỏ chói nhưng thân h́nh
lại ở trần. Hai bên là quân lính đi kèm, y phục
sặc sỡ. Đoàn voi dừng lại.
Công chúa được rước từ kiệu khiêng sang
kiệu voi có lọng ba tầng che phủ. Nhạc
nhă vang lừng. Dân chúng đổ xô ra hai bên
đường để xem, đông không biết bao nhiêu
mà kể.
Đám
rước về đến nội thành th́ trời đă
xế trưa. Vua Chế Mân thân hành ra đón công chúa
ở trước sân điện. Con voi mang kiệu
công chúa qùy xuống, các thị nữ người Chàm
đỡ công chúa ra khỏi kiệu. Ngước mắt
nh́n lên, Huyền Trân thấy cung điện nguy nga, kiến
trúc lạ kỳ, xây dựng toàn bằng đá ong và
gạch nung. Trước sân điện, có hai hàng voi đá
và nghê đá. Quân sĩ đứng dàn ra hai bên
để vua Chàm tiến đến. Công chúa Huyền
Trân chắp tay cúi đầu chào vua theo
kiểu Đại Việt. Vua đáp lễ.
Đây là Jaya Simhavarman đệ tam, công chúa nghĩ. Chàng cao
hơn vua Anh Tông, thân h́nh vạm vỡ nhưng nước
da hơi sậm. Vua mặc áo lụa thêu chỉ vàng, trên
đầu đội một cái mũ cao có trang trí
nhiều bông hoa làm bằng kim tuyến,
trên mũ có một cái chóp bằng lụa trắng. Một người lính hầu đứng sau che
lọng cho vua. Vua quay lại truyền
thị nữ đưa công chúa vào nội điện
để giải khát.
Những
ngày kế tiếp là những ngày thật từng bừng
của cả kinh đô Vijaya. Không những trong cung
điện mà ở khắp kinh thành thiên hạ đều
có giăng đèn kết hoa rực rỡ. Lễ
đăng quang của Hoàng hậu được toàn dân
hăng hái tham gia khiến cho Huyền Trân thấy
được niềm kính ái lớn lao
của dân chúng Chàm dàng cho ông vua của họ. Ngày lễ
đăng quang, nàng được phong hiệu là Hoàng
hậu Paramesvari. Vua truyền dựng ngay một bia đá ở Posah để ghi lại
sự kiện lịch sử này.
Suốt ba ngày ba
đêm, cả nước mở hội ăn
mừng. Nhă nhạc vang lừng cung
điện. Đêm thứ nhất, một đoàn
kịch nhạc tŕnh diễn ngay trên sân điện,
kịch bản Mahabharata dưới ánh đuốc sáng
rực trời. Quần chúng tụ họp
đông đảo. Vua và Hoàng hậu
ngồi trên đài cao có mái che. Đêm thứ hai,
đoàn hát tŕnh diễn tuồng Ramayana. Huyền
Trân chưa được biết cốt truyện này cho
nên Harijit phải giải thích sơ lược cho nàng trong
suốt buổi tŕnh diễn. Đêm thứ
ba vũ nữ Chiêm Thành tŕnh bày những vũ khúc dân
tộc. Vũ nữ Chiêm Thành không ăn
mặc tha thướt như ở Đại Việt.
Những cánh tay trần và những
bắp chân trần của họ được trang
phục bằng những chuỗi hạt cườm,
cổ và bụng cũng vậy. Thân h́nh họ uyển chuyển,
điệu múa của họ rất mềm, nhất là
những cánh tay của họ. Ban
đầu Huyền Trân cảm thấy hơi bỡ
ngỡ, nhưng ngay sau đó nàng thấy được
tất cả cái đẹp của vũ nghệ Chiêm Thành.
Nàng say mê nh́n. Những ngày hội hè qua và
lễ đăng quang chấm dứt.
Ngay trong ngày
đầu gặp vua, nh́n vào hai mắt vua, Huyền Trân
biết là ḿnh đẹp. Nàng làm cho vua Chàm
ngạc nhiên hết sức khi nói những lời
đầu tiên với vua bằng tiếng Chàm. Nàng đă luyện giọng thật kỹ với
vị giáo sư của nàng về những câu nói mà nàng
định nói trước tiên với người. Nét mặt vua lộ vẻ hân hoan không ai không trông
thấy. Vua dặn nàng trong những lúc
không có kẻ thứ ba th́ cứ gọi vua là Harijit.
Tên đó, dân chúng cũng thường dùng để nói
tới chàng.
Trong ḷng
người công chúa Đại Việt, t́nh yêu đối
với
Vua
Chế Mân thường đi du hành trong nhân gian để
thị sát và để nghe góng dân t́nh. Huyền Trân
được theo vua trong nhiều
chuyến đi như thế. Tại kinh đô Vijaya,
được vua cho đi xem bốn ngôi tháp nổi
tiếng: Tháp bạc, tháp vàng, tháp đồng, và tháp ngà. Vua
lại đưa Huyền Trân tới xem một ngôi tháp
lớn mà vua mới xây dựng xong ở kinh đô: đó là
tháp Po Klaung Garai mà vua rất đắc ư. Tháp rất cao,
phía trên có tới hàng mấy mươi mái bầu, trang trí
cực kỳ mỹ lệ. Vua cho nàng biết
là vua cũng đang xây tháp Yang Prong ở miền cao nguyên
Darlac.
Huyền
Trân đă đi thăm nhiều tháp. Những tháp này
đều có thờ kinga tức là một trụ đá
trần, đặt trên một phiến đá khác là yoni; một
tượng trưng cho dương, một tượng
trưng cho âm. Vua nói cho Huyền Trân biết là đá linga bao
giờ cũng nằm ở vị trí trung tâm của tháp, và
những tháp này thuộc về Ấn Độ giáo tức
là Bà
Những chuyến
đi mà Huyền Trân ưa thích nhất là những
chuyến đi thị sát về đời sống dân dă
ở thôn quê. Trong những chuyến đi này, nàng được
tiếp xúc thẳng với người dân Chàm. Nàng
được đi thăm các ruộng lúa, các ruộng
muối, các nhà dệt lụa, các làng đánh cá. Huyền
Trân nhận ra rằng bờ biển Chiêm rất nhiều cá
và dân Chàm là những ngư dân thiện
nghệ. Họ chế tạo những
chiếc ghe nhẹ có thể đi rất mau trên biển.
Người dân Duyên Hải nào cũng bơi lội
giỏi, cũng là những thủy thủ khéo léo. Harijit cho
nàng biết cũng v́ lẽ đó mà Chiêm Thành có một
lực lượng hải quân rất hùng hậu. Quân lính
Chiêm Thành, vua nói, chỉ được cấp gạo ăn và áo mặc mà không được
trả lương. Trong thời b́nh, họ xây đắp
tường lũy bằng gạch và tháp canh bằng đá
để bảo vệ các miền đông dân cư.
Huyền Trân dă được nói chuyện với các bô lăo,
với ngư dân, với các nàng thợ
dệt, và các
Nhận thấy
nhiều trẻ em bị đau mắt nhặm, nàng xin
với vua chế tạo một thứ thuốc trị
đau mắt mà nàng đă học được ở
Đại Việt. Trong những chuyến đi kế
tiếp, nàng thường đem thuốc ấy đi theo, và mỗi khi gặp trẻ em đau
mắt, nàng thường bảo nấu nước
muối rửa mắt cho chúng rồi tự tay lấy
thuốc đau mắt bôi cho các em. Mỗi lần như
thế, vua Chế Mân kiên nhẫn chờ nàng làm xong công
việc rồi mới tiếp tục cuộc du hành.
Huyền Trân sung sướng lắm. Ở
Đại Việt ít khi nàng được ra khỏi cung
cấm. Lần về thăm quê ở Hải
Dương, nàng có được tiếp xúc trực
tiếp với dân quê và chơi đùa với trẻ em bách
tính đâu.
Harijit
cho nàng biết là ở Chiêm Thành có hai thị tộc lớn
là thị tộc cây dừa và thị tộc cây cau. Hai thị tộc
này ngày xưa đă từng xung đột nhau trong hàng
trăm năm để giữ ưu thế, và nhiều cuộc đổ máu đă từng
xảy ra v́ thế. Nhưng bây giờ hai bên
đă thỏa hiệp. Thị tộc cây dừa ngày
xưa chiếm lănh miền Bắc, lập kinh đô ở
phía bắc đèo Mây, gọi là kinh đô Indraprura, c̣n
thị tộc cây cau th́ chiếm lănh miền Nam, làm bá
chủ vùng Panduranga.
Tết
Chiêm Thành nhằm đúng vào ngày mồng một tháng
mười một của lịch Đại Việt. tại
kinh đô Vijaya, ngày Tết được tổ chức
thật linh đ́nh. Trước hoàng cung, lính ngự lâm
dựng rạp để làm lễ. Rạp
chứa được cả vạn người. Khắp nơi đều có treo đền kết
hoa. Tối ngày mồng một, vua và Hoàng hậu
ngự trên đài cao để xem đốt pháo thăng
thiên. Pháo bay rất cao, cả kinh đô đều trông
thấy. Tiếng pháo nổ lớn như súng bắn đá
làm rung chuyển cả kinh kỳ. Khắp nơi dân chúng
tổ chức các cuộc vui như đua thuyền, leo cột mở, đấu vật, chọi
gà, đấu voi, múa hát và tŕnh diễn kịch tuồng. Vua đưa Hoàng hậu tới dự những
cuộc vui dân dă. Huyền Trân nhận thấy một
số điệu ḥ ṿ vẻ quen thuộc, phảng
phất âm hưởng Đại Việt. Nàng
chợt nhớ ra rằng trong quá khứ có nhiều
điều hát và điệu vũ tại Đại
Việt đă được các vua Lư đem từ Chiêm
Thành về. Thầy học của Hoàng
hậu ngày xưa đă có dạy nàng điều đó.
Vua Chế Mân nói cho hoàng hậu nghe về những
"tọ" tức là những điệu hát Chàm,
như tọ mư yút, tọ tầm mư, tọ ra dao
v.v... Nàng thấy dân quê sử dụng các
thứ đàn rasap và đàn kanh tương tự như
đàn nhị của người Việt. Đàn campi
th́ giống như đàn tranh, và đàn kaping th́ lại
giống đàn bầu. Người Chàm
cũng dùng trống kinang tương tự như trống
cơm của Đại Việt. Đêm
nào tại rạp dựng trước hoàng cung cũng có
một đoàn ca vũ hoặc kịch nghệ tŕnh
diễn và đêm nào dân chúng cũng quy tụ rất đông
đảo, ṿng trong, ṿng ngoài chật ních. Tết Chàm cứ thế kéo dài cho đến
mười ngày mới hết.
Trong cung, vào
những ngày rỗi răi quốc sự, vua Chế Mân
thường kể cho Huyền Trân nghe về lịch
sử Chiêm Thành. Vốn là một người con gái ưa
học hỏi, vị Hoàng hậu trẻ lắng nghe
rất chăm chú khiến cho vua lại càng ưa tâm t́nh
với nàng. Vua kể cho Huyền Trân nghe cuộc kháng
chiếng chống quân Nguyên của vua và của
Thượng hoàng Indravarinan đệ ngũ.
Hồi đó, Huyền Trân chưa sinh. Năm nàng sinh là
năm Mậu Tí, tức là năm Đại Việt
vừa đánh bại được đạo quân xâm lăng của Hốt Tất Liệt. Tên
Harijit của chàng có nghĩa là con sư tử chiến
thắng. Theo Harijit thuật lại th́ vào năm Nhâm
Ngọ, vua nhà Nguyên sai tướng là Toa Đô sang đánh
Chiêm Thành. Toa Đô muốn mượn đường Đại
Việt để đi, nhưng vua Nhân Tông không cho, cho nên
đă dùng đường biển. Hơn
một ngàn chiến thuyền ra đi từ Quảng Châu
đến đổ bộ trên bờ biển Chiêm Thành.
Hồi đó Harijit chưa lên ngôi nhưng chàng đă
mười tám tuổi rồi, và thái độ cương
quyết chống Nguyên của chàng đă làm cho chàng trở
thành linh hồn của cuộc kháng chiến. Chàng ra
lệnh đốt hết kho lúa, tập hợp quân binh trên
rừng núi và tổ chức kháng chiến. Quân lính của
Toa Đô bị thua nhiều trận đến thất
điên bát đảo, trong khi đó viện binh của Ô Mă Nhi do vua Nguyên gởi tới lại bị
chặn đứng ở biên giới Nguyên Việt. Năm
Giáp Thân, Thoát Hoan đem quân sang đánh
Đại Việt; năm sau Toa Đô được
lệnh rút quân ra khỏi Chiêm Thành, đi lên miền Bắc
để yểm trợ cho Thoát Hoan. Do đó mà Chiêm Thành
thoát ách đô hộ của quân Mông Cổ.
Huyền Trân
kể cho vua Chế Mân nghe về cuộc kháng chiến
chống quân Mông Cổ của dân Đại Việt,
với thật nhiều chi tiết. Thầy
học của nàng là Văn Huệ Vương đă
dạy nàng rất kỹ về giai đoạn lịch
sử này; ông đă sống qua giai đoạn đó và
đă từng quen với hầu hết những anh hùng
của cuộc kháng chiến. Vua Chế Mân say mê nghe
nàng nói, và thỉnh thoảng chen vào
để hỏi thêm một vài chi tiết. Huyền Trân nói
tướng Trần Hưng Đạo là ông ngoại
của nàng, và tướng Trần Quang Khải là thân sinh
của thầy học nàng.
Nhờ
nói chuyện với vua mà nàng biết được
rằng Chiêm Thành đă nhiều lần bị các
nước chân Lạp và Đại Việt xâm chiếm. Năm Ất
Sửu, tức là khoảng một trăm sáu mươi
năm về trưóc. Chân Lạp đă qua xâm chiếm kinh
thành Vijaya và đô hộ nước Chàm trong suốt
bốn năm ... Ba mươi hai năm sau, Chiêm Thành
quyết chí phục thù và đă đưa quân sang xâm
chiếm kinh đô
Harijit
kể lại tất cả những điều đó
với một giọng trầm buồn. Hoàng
hậu Paramesvari ôm mặt khóc. Nàng không
ngờ giữa hai nước Chiêm Việt đă có những
giai đoạn lịch sử đau thương
đến thế. Hồi c̣n bé, Huyền Trân đă
được nghe nói về những cuộc chiến tranh
Chiêm Việt, và nàng cứ nghĩ rằng tất cả
tội lỗi là do người Chàm gây nên. Nàng biết
rằng Đại Việt có quyền đem quân ra biên
giới để dẹp những cuộc khiêu khích và phá
rối của người Chàm, nhưng không ngờ là các
cuộc chinh phạt đă xảy ra lớn lao
như thế. Có thể là người Chàm
hiếu chiến và ưa khiêu khích thật nhưng
điều này có thể phát sinh từ một mối
căm hận lâu đời. Họ khó mà
quên được rằng một phần đất của
đất nước họ nay trở thành lănh thổ
Đại Việt. Qua những biến
cố lịch sử mà nàng mới được nghe,
Huyền Trân thấy được ước muốn thâm
sâu của đồng bào nàng trong việc mở mang bờ
cơi về phương
Nàng lau khô
nước mắt, và ngước nh́n lên vua Chiêm, nàng nói cho
Harijit biết ư tưởng đó của nàng. Vua Chiêm
hiểu được tâm trạng của nàng công chúa
Đại Việt, và cầm lấy tay
Hoàng hậu, trang trọng như đang nắm giữ
một vật ǵ quư báu nhất đời.
Đầu
tháng Chạp năm ấy Huyền Trân thấy trong
người khó ở. Vua Chế Mân cho mời ngự y vào
chẩn bệnh cho Hoàng hậu. Ngự y cho
biết là Hoàng hậu bắt đầu thai
nghén. Vua mừng rỡ, lại càng cưng quư Huyền Trân
hơn, Hoàng hậu mong sẽ hạ sinh được
một hoàng nam để nối chí Thượng hoàng và
cũng để nối chí của chồng. Huyền Trân
biết đứa con của nàng sau này sẽ không làm vua
nước Chiêm Thành, bởi v́ vua Chàm đă có tới hai
thái tử, và thái tử đầu đă được
phong làm Đông Cung. Tên chàng là Harijitputra, nghĩa là
người con của sư tử chiến thắng,
Harijit năm ấy đă lớn. Đó là một
người con trai dễ thương, mang trong ḿnh hai ḍng
máu Chiêm Thành và Qua Oa. Huyền Trân đă nói chuyện
nhiều lần với thái tử và tuy đă hai mươi
hai tuổi, thái tử rất cung kính đối với
nàng. Trong những buổi trao đổi chuyện tṛ
với thái tử, Hoàng hậu thương nhân cơ hội
để gieo vào ḷng người con trai này những hạt
giống thân hữu và ḥa b́nh.
Vua Jaya Simhavarman
đệ tam có nói với Huyền Trân rằng dù Hoàng
hậu sinh con trai hay con gái th́ vua vẫn mừng rỡ
như nhau. Khi biết được rằng Huyền Trân
mong ước sinh con trai, vua ngẫm nghĩ hồi lâu
rồi nói:
- Nếu Hoàng
hậu sinh con trai ta sẽ đặt tên cho thế tử
là Dayada. Rồi vua cho Huyền Trân biết tên đó có
nghĩa là con trai, là hậu dệu, là người nối
dơi. Hoàng hậu rất bằng ḷng tên ấy.
Năm sắp
hết và Tết sắp đến, Hoàng hậu bàn với
Thị Ngọc và Thị Khanh về việc thiết
lập trong cung một bàn thờ tổ tiên đế cúng lễ
vào ngày Nguyên Đán Mậu Thân. Ở Chiêm Thành, dân chúng không
ăn Tết Nguyên Đán theo truyền
thống Đại Việt. Huyền Trân
chưa bao giờ thấy nhớ nhà nhớ nước
như thế. Nàng bảo Thị Khanh đi t́m
những vật liệu để nàng làm bánh chưng
và bánh dày cúng tết. Đêm Giao thừa, Huyền Trân
thức với hai người thị nữ. Ba người nhắc cho nhau ghe những câu
chuyện Tết thời trẻ thơ. Họ nói
chuyện thân mật như ba chị em, và tuy hai thị
nữ gọi tên Huyền Trân là lệnh bà, họ cũng
không thấy có ǵ ngăn cách t́nh thân giữa họ và Hoàng
hậu. Ba người nói chuyện với
nhau cho đến Giao thừa mới đứng dậy làm
lễ tổ tiên. Huyền Trân vọng
bái về phương Bắc, tưởng nhớ
đến Thượng hoàng, và tất cả những
người thân. Hai cô thị nữ
cũng bắt chước nàng. Trong giờ phút đó,
họ có cảm tưởng rất gần gũi
quê hương.
Huyền
Trân đă hứa cho Thị Khanh về nước vào tháng
sáu năm Mậu Thân để lập gia đ́nh. Thị
Ngọc th́ t́nh nguyện ở măi bên cạnh Hoàng hậu.
Ngọc đă từng lấy niềm vui
của Huyền Trân làm niềm vui của ḿnh và đă quen
săn sóc nàng như săn sóc cho một người
chị. Được Huyền Trân
hỏi về chuyện gia đ́nh. Ngọc
đă lắc đầu mỉm cười. Cuối
cùng Ngọc đă thưa với Hoàng hậu là nếu
cần, nàng sẽ lấy chồng Chiêm Thành để có
thể măi măi được gần Hoàng hậu.
Huyền Trân đă
học chữ Devanagari và đă đọc được
những bản văn dharmasastra bằng tiếng Phạn.
Nàng cũng đă học đọc và viết chữ khar -
tapuk, một thứ chữ được thường dân
sử dụng, cũng viết từ trái sang phải
như chữ Phạn chứ không phải viết từ
trên xuống dưới như ở Đại Việt.
Nàng dạy cho Thị Ngọc học thứ chữ này,
thông dụng cũng như chữ Nôm ở Đại Việt.
Chữ Phạn th́ chỉ có giới trí
thức và quư tộc mới biết đọc và biết
viết mà thôi.
Một hôm đi
Panduranga, thị sát việc xây tháp Po Klaung Garai về, vua
Chế Mân lên cơn sốt. Huyền Trân cho
gọi các ngự y vào chẩn mạch cho vua. Ngự y
nói là vua bị cảm cúm, bảo cung nhân đánh gió cho vua.
Hoàng hậu tự tay đi nấu cháo
cảm và mang đến cho Harijit. Vua húp được
nửa bát, chảy mồ hôi, và thấy khỏe, nhưng
sáng hôm sau, vua lên cơn sốt trở lại. Cơn sốt
kéo dài và vua nói ḿnh mẩy vua đau nhức như dần. Các ngự y lại được triệu vào.
Nhiệt độ của vua lên rất cao, và vua đă nói
mê trong cơn sốt. Huyền Trân hoảng
hốt. Các ngự y chầu chực trong
ba hôm liền mà vua vẫn mê man không tỉnh.
Người ta cạy miệng vua để đổ
thuốc vào, nhưng không đẩy lui được
cơn bệnh. Hoàng hậu thức suốt ba
đêm bên giường ngự. Thị Khanh và Thị
Ngọc khẩn khoản xin nàng đi nghỉ để
họ thay thế, nàng cũng không nghe. Những lương
y nổi tiếng, kể cả mấy vị lương y
Tây Trúc cũng được mời vào cung tham vấn. Ai cũng lắc đầu trước t́nh
trạng vua. Triệu chứng của bệnh vua
tương tự như triệu chứng của bệnh
thương hàn, nhưng thuốc thương hàn ngự y
đem dâng đă không có hiệu quả nào. Vào giữa khuya
ngày mồng bảy tháng năm, vua băng .