Đạo
Phật Ngày Nay
Thiền Sư Nhất Hạnh
Lá Bối in
lần thứ nhất,
Lá Bối in
lần thứ nh́,
Lá Bối in
lần thứ ba,
Trước hết tôi xin phép
được nói quan niệm của tôi về vấn
đề học Phật. Trong giới Phật tử, ai
cũng biết rằng đạo Phật không phải là
từ trên trời rơi xuống mà chính lại là
được phát hiện trong ḷng sự sống của
nhân loại. Đạo Phật xuất
hiện trong nhu cầu của nhân loại, tồn tại
v́ nhân loại, để phụng sự cho nhân loại.
Bởi vậy cho nên chúng ta đừng quan niệm
rằng đạo Phật là một kho tàng tri thức và lư
thuyết cứng đọng. Đạo
Phật ra đời v́ sự sống của nhân loại
nên cũng linh động như sự sống của nhân
loại. Ta không thể tách rời đạo Phật
ra khỏi sự sống, bởi chính đạo Phật là
sự sống. Nếu ta quan niệm
đạo Phật như một kho tàng tri thức và lư
thuyết cứng đọng th́ tức là ta đă xem
đạo Phật như những chén bát cổ trưng bày
ở tàng cổ viện. Những chén bát cổ ấy
biểu hiện một vài khía cạnh sinh hoạt của
con người cổ, nhưng không có tác dụng ǵ trên sinh
hoạt của con người ngày hôm nay. Chúng ta hăy nh́n
đạo Phật trong lịch sử văn hóa nhân
loại, hăy nh́n nhận sự có mặt của đạo
Phật trong suốt cuộc sống nhân loại, cũng
như hăy nh́n nhận sự hiện diện của
đạo Phật trong sự sống của nhân loại
hôm nay. Đạo Phật là tất cả những sinh
hoạt của nó, những biểu hiện trên suốt
lịch sử nhân loại, chứ không phải chỉ là
một ít sinh hoạt biểu hiện trên một bối
cảnh kinh tế, xă hội, chính trị của một
khoảng thời gian mấy chục năm hồi
đức Phật c̣n tại thế.
Học Phật không phải là
đi thăm những đồ cổ trong tàng cổ
viện để rồi ra khoe với mọi người
rằng những đồ cổ ấy đẹp như
thế này, quư như thế kia. Học
Phật là t́m biết vai tṛ của đạo Phật trong
suốt lịch sử của sự sống nhân loại,
những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa
nhân loại, những luồng sinh khí mà đạo Phật
đă thổi vào trong đà tiến hóa của nhân loại. Khi
có được một nhận định có tính cách
sử quan như thế rồi, chúng ta mới có thể
tiếp nhận được sức sống rào rạt
mà đức Phật đă trao truyền cho chúng ta qua hai
mươi lăm thế kỷ sinh hoạt linh
động. Tiếp nhận được sự sống
ấy, ta mới ư thức được sứ mạng
của chúng ta, sứ mạng của người Phật
tử trong xă hội ngày nay, mới tiếp nối
được ḍng sinh hoạt Phật giáo.
Tôi đă
từng gặp nhiều người học Phật lâu
năm. Họ có thể thuộc ḷng bộ Phật giáo
Bách khoa Tự điển. Họ có
thể giải thích cho ta về bất cứ một câu
một chữ nào trong Tam tạng. Họ
chất chứa trong óc họ những cái biết rất
bác học. Nhưng họ không hiểu ǵ
cả. Họ không hiểu đạo
Phật là ǵ cả. Lư do là tôi không thấy những
kiến thức của họ về đạo Phật có
dính líu ǵ đến sự sống của chính bản thân
họ, và của đoàn thể họ. Họ không tiếp
nhận được đạo Phật, không tiếp
nhận được sinh khí của đạo Phật : họ chỉ mân mê trong tay của
họ những cái xác cũ của đạo Phật
mà thôi. Họ chỉ ưa đi xem đồ
cổ trong tàng cổ viện. Cái học
của họ giống như cái học khảo cổ nhưng
c̣n tệ hơn cái học khảo cổ ở chỗ cái
học của họ không có một triển vọng nào khác
hơn là để… nói và nói.
Cái học
đó vô ích.
Cho nên ta không ngạc nhiên
lắm khi thấy có người khi nói th́ chỉ nói
những điều rất "siêu" mà khi làm th́ lại
hành động như một kẻ chưa bao giờ
biết đến đạo Phật là ǵ. Học theo kiểu ấy, tôi tưởng tốn
công, tốn th́ giờ mà vô ích quá. Hậu quả của cái
học ấy là sự nói "dốc" - tôi xin lỗi v́
đă dùng chữ này, v́ không kiếm được chữ
nào nhă hơn - một hậu quả chẳng có ǵ là
đẹp đẽ cho tương lai đạo Phật.
V́ vậy, tôi nghĩ rằng ta phải học Phật
với tâm trạng của một con người thao
thức đi t́m lẽ sống, với tâm trạng một
nhà mỹ thuật đi t́m cái đẹp, với tâm
trạng của một bệnh nhân đi t́m lương y.
Với những tâm trạng ấy, ta chắc chắn
sẽ đạt tới nhiều khám phá mới lạ.
Không ai không nhận thấy
rằng hiện giờ đang có một phong trào học
Phật. Giới Tăng sĩ và giới tín đồ lo
học hơn bao giờ hết. Các nhà Nho xưa cũng
ưng học Phật. Các cậu bé chín mười tuổi
cũng được học Phật. Người ta
học Phật ở mọi nơi, ở Phật học
viện, ở các chùa, các niệm Phật đường,
các trường Bồ Đề tư thục, ở các
cuộc cắm trại của Gia đ́nh Phật tử, trong
các trường Sĩ quan, trong các đơn vị Quân
đội, trong các trại Hướng đạo sinh,
ở các nhà thương, trường học, dưỡng
trí viện, cô nhi viện. Cả đến trong các lao xá
cũng thỉnh thoảng có những buổi giảng
diễn và thuyết tŕnh về đạo Phật. Các
nhật báo lẻ tẻ cũng có phụ
Hăy đặt
lại những câu hỏi thật giản dị. Học Phật để làm ǵ ? Người Phật tử trả lời : để biết chủ
trương và phương pháp của đạo Phật
mà hành tŕ, tự độ, độ tha. Chúng tôi
đồng ư. Bởi v́ câu trả lời ẩn chứa ư
thức muốn hiểu, muốn thấy và muốn
làm. Nhưng đă có bao nhiêu người
trả lời như thế mà không đạt
được mục đích như thế. Bởi
v́ họ đă trả lời để mà trả lời,
chứ không phải đă trả lời với một tâm
trạng thao thức, thành khẩn. Tôi thấy
có người (kể cả một số ít các vị
Tăng sĩ) học là để học, học v́
nhận thấy bổn phận của ḿnh phải học.
Tâm trạng mà như thế th́ kết quả sẽ ra sao ? Có những người
đi qua rừng trầm hương mà không thấy
được một cây trầm. Những vị kia đă (sẽ) đi qua khu rừng chân lư,
dẫm đạp lên châu ngọc chân lư mà không thấy chân
lư. Hoặc giả bọc trong vạt áo những châu
ngọc mà ḿnh không biết là châu ngọc, không một chút
thiết tha về những châu ngọc này. Trong trường
hợp đó, người học không thành công.
Lại có
những người học Phật để đạt đến
mục đích rất giản dị là… trở thành một
nhà Phật học. Người
ta đă nghe nói nhiều về triết học cao siêu
của đạo Phật, rất ưa nghe về nền
triết học cao siêu đó. Họ muốn nghe và cố
nhiên họ sẽ tỏ ư thán phục những người
nào nói được cho họ nghe, và nhất là nói hay. Tôi đă thấy những người đi xa
về nhà nói dốc (ấy, tôi cứ quen dùng cái chữ này
măi) và rất thích khi thấy làng xóm há mồm nghe ḿnh tán
hưu tán vượn về những điều ḿnh đă
thấy ở xứ người. Nói là
một khoái cảm. Được
người ta nghe là một khoái cảm. Cho nên có nhiều người chỉ học
Phật với mục đích là để nói lại cho người
khác nghe. Như chúng ta đă biết, chính bản thân
của người nói đă không tiếp nhận
được sinh khí của đạo Phật th́
những người nghe kia làm sao mà thừa hưởng
được một chút ǵ của sinh khí đạo pháp
cho được. Trong trường hợp này,
người học cũng không thành công.
Có hai
trường hợp khác mà chúng ta không cần bàn luận
đến nhiều là trường hợp cái học
từ chương và cái học với mục đích
để xuyên tạc và kích bác. Cái học từ chương
chẳng làm nên tṛ trống ǵ, điều đó mọi
người đều biết. Cả
một nền Nho giáo suy diệt v́ cái học từ
chương. Trước kia th́
không nói, chứ bây giờ cái học Phật theo lề
lối từ chương là một cái học vô ích trông
thấy. C̣n cái học để mà xuyên
tạc kích bác th́ thời nào và ở đâu mà chẳng có.
Bởi sẵn mang một tâm niệm xấu xa như
thế người học làm sao tiếp nhận
được cái hay của đạo Phật
? Thành kiến mê vọng đă khiến cho
người ta, sau một thời nghiên cứu sách Phật
bằng tiếng Tàu, tiếng Tây kết luận rằng đạo
Phật phủ nhận sự sống, đạo Phật
không có từ bi, khi một em bé mười tuổi
đă có thể thấy được sức sống rào
rạt của đạo Từ bi trong chính gia đ́nh em, xă
hội em và ngay cả trong tâm niệm của chính em nữa.
Ta
biết nói làm sao ? Chỉ một thái độ, một tâm
trạng thôi cũng đủ để quyết
định sự thành công hay không thành công của
người học Phật. Đạo Phật là một
thực tại linh hoạt chứ không phải là một
xác ướp như chúng ta đă biết. Muốn hiểu
được đạo Phật ta phải xúc tiếp
với thực tại ấy, nghĩa là phải thể
nhập thực tại ấy, phải học Phật
bằng những phương pháp của chính Phật
học.
Như
thế nghĩa là thế nào ? Chân lư Phật học có tính
cách thực nghiệm tâm linh, linh động, vô
tướng. Nó cũng giả tỉ như cái khả
năng viết chữ của bàn tay chúng ta. Nếu cắt
bàn tay và mổ xẻ bàn tay ấy một cách khoa học
đến thế nào đi nữa th́ ta cũng không
thấy được cái khả năng mầu nhiệm kia
mà c̣n làm mất nó nữa là khác. Ta sẽ thất vọng v́
trước mắt ta chỉ có cái xác Phật học.
Phạm Quỳnh,
Tôi
là người tu hành theo đạo Phật, xuất gia
từ hồi c̣n thơ. May mắn tôi cũng
được học qua về các tông giáo, nhưng tôi không
bao giờ dám có ư tưởng rằng ḿnh có thể nói không
sai lầm về một tông giáo khác như Thiên Chúa giáo
chẳng hạn. Bởi v́ tôi suy nghĩ ngay vào trường
hợp của chính tôi. Càng đi sâu vào sự thực
nghiệm tâm linh - thiền quán - bao nhiêu, tôi càng hiểu
về đạo Phật một cách thâm thúy bấy nhiêu.
Tôi thấy lư luận h́nh thức, căn cứ trên danh ngôn
và văn tự, không đưa tôi đến sự
thấu hiểu sâu xa được. Thỉnh thoảng
nếu có những tổ chức văn hóa mời nói, tôi
cũng chỉ nhận nói về đạo Phật tức
là nói về phần mà tôi tự cho là có sở đắc
vững vàng hơn hết. Nhưng nếu có nói th́ tôi
cũng rất ít lư luận. Tôi chỉ tŕnh bày sinh hoạt tâm
linh của tôi, tŕnh bày đạo Phật qua sinh hoạt tâm
linh tôi. Nhờ lối tŕnh bày ấy mà tôi đă thành công
một vài lần trong sự trao truyền một chút ít sinh
khí đạo pháp cho người nghe. Lư luận bao nhiêu, tôi
làm chết đạo pháp bấy nhiêu. Đến như khi
tôi viết mấy trang này đây, tôi cũng có cảm
tưởng rằng tôi đang phơi bày tâm hồn tôi,
chớ không phải là tôi đang lư luận để chinh
phục quí vị độc giả.
Vậy
th́, thưa quí vị, tôi có thể kết luận rằng
theo thiển ư, muốn đạt đến kết
quả của sự học Phật, ta phải thành khẩn,
không có tư ư, không thiên lệch, không h́nh thức, và cốt
nhất là phải học Phật theo những phương
pháp của chính Phật học. Phải làm sao tiếp xúc
với thực tại linh hoạt của đạo
Phật, phải tiếp nhận cho được
luồng sinh khí tiếp nối từ đức Phật
qua hai mươi lăm thế kỷ truyền thừa,
chứ không phải chỉ là lượm lặt, chất
đống và phân tích những cái xác Phật học không
hồn kết cấu bằng danh từ, bằng tài
liệu.
Hăy
để đức Phật ngồi dưới cây Bồ
Đề, đừng
Phật
tử, qua hai mươi lăm thế kỷ, đă xây
dựng những nhân sinh quan khác biệt trên những nguyên
lư sáng tỏ ấy và đă làm cho ḍng sinh lực của
chính pháp chảy tràn về hiện tại. Xă hội luôn
luôn đổi thay; những h́nh thức sinh hoạt của
con người, nhất là con người Phật tử,
cũng được đổi thay để một
mặt đáp ứng với nhu cầu xă hội, một
mặt thể hiện được những nguyên lư sáng
tỏ kia. Có quan niệm vấn để bảo tồn
đạo pháp như thế th́ mới không chấp
chặt bảo thủ những h́nh thức sinh hoạt
cổ điển không c̣n sinh khí đạo pháp - những
cái xác không hồn của các thế hệ cũ để
lại.
Và
cũng nhờ quan niệm vấn đề bảo tồn
đạo pháp như thế mà ta có thể vượt
được thái độ ấu trĩ của kẻ
mang nặng thiên kiến và thái độ bưng bít chấp
thủ. Nếu đức Phật được nhận
định như là khởi nguyên của một gịng sinh
khí thơm lành và sáng mạnh th́ đạo Phật phải
được coi như một thực thể sinh
hoạt mà không nên coi đó là một kho tàng hương
hỏa của những người Phật tử. Ta
thường thấy có những Phật tử chỉ
khăng khăng cho đạo Phật là hay, đức
Phật là cao, và tất cả những cái khác ngoài
đạo Phật là dở, là thấp. Như vậy
họ không hiểu "đạo Phật" là ǵ,
đức Phật là ǵ. Có lẽ họ nghĩ rằng đạo
Phật là đạo của họ, gồm có tam tạng
kinh điển, gồm có Giáo hội Tăng già, gồm có
đức Phật mà họ đang thờ lạy. Không,
thưa các ngài, những ǵ mà tôi vừa kể chỉ là
những h́nh thức sinh hoạt của đạo
Phật, chưa phải là thực thể Phật giáo.
Thực thể Phật giáo là cái ǵ thể hiện và lưu
nhuận một cách linh hoạt trong những h́nh thức
đó, và cũng có thể thể hiện và lưu nhuận
trong những h́nh thức khác nữa.
Tôi
lấy ví dụ : trong kinh Phật có công nhận một vài
tư tưởng của Áo nghĩa thư (Upanishads)
nghĩa là của những điển tịch có
trước đức Phật, vậy th́ những tư
tưởng ấy của Áo nghĩa thư không có "Phật
tính" hay sao ? Hoặc giả đạo Phật đă
dùng luận lư học Nhân Minh của Aksapada sau khi đă
sửa chữa lại đôi chút, vậy Nhân Minh không có
"Phật tính" sao ? Lại nữa, Nho giáo có dạy
về hiếu thuận, đạo Phật cũng dạy
về hiếu thuận, vậy th́ Nho giáo, kể riêng
về điểm hiếu thuận ấy, không có một
chút "Phật tính" nào sao ? Cứ như thế mà suy
luận ta sẽ thấy rằng trong các học thuyết
tông giáo, học thuyết và tông giáo nào cũng có một
phần "Phật tính", hoặc nhiều hoặc ít. Một
vị tăng già không thực hành đạo pháp, một tín
đồ không hiểu Phật là ǵ, một quyển kinh
chép sai, tất cả những thứ ấy làm ǵ có
"Phật tính" ? Cho nên đạo Phật là tất
cả mọi h́nh thức sinh hoạt nào có thể làm
sống được nguyên lư Phật học.
Tôi
xin đàm luận thêm về điểm này để cho
vấn đề được sáng tỏ. Ví dụ tôi
lấy con mắt của người Phật tử
để nh́n các tông giáo khác. Tôi thấy có một ít
điểm đồng và nhiều điểm dị.
Những điểm đồng ấy cho tôi biết có
sự hiện diện của "Phật chất"
trong tông giáo kia, những tông giáo không mang tên Phật giáo.
Vậy là tôi đă nh́n các tông giáo ấy với một con mắt
có nhiều thiện cảm. Tôi xin gạt qua trường
hợp một tông giáo này có ư muốn không cho tông giáo khác phát
triển thêm. Điều đó buồn quá và tôi nghĩ
đó có thể là điều khổ tâm nhất của các
nhà văn hóa tha thiết với nền văn hóa tổng
hợp của nhân loại.
Tôi
chỉ đem một ví dụ. Nếu Phật tử không
am hiểu đạo Phật làm những bản
"nhạc Phật" có một nội dung tinh thần
Thiên chúa giáo, xây dựng "chùa chiền" theo kiến
trúc truyền thống Thiên chúa giáo, dùng danh từ mang
nội dung ư nghĩa Thiên chúa giáo th́ người ấy
hẳn nhiên là người đang hoằng dương giáo
lư Thiên chúa giáo trong Phật giáo rồi c̣n ǵ. Người đó
ít nhiều mang tính cách một tín hữu Thiên chúa giáo. Trái
lại, nếu một tín hữu Thiên chúa giáo dùng các danh
từ có nội dung Phật giáo như Từ bi, sám hối,
viết các bài thánh ca với nội dung thấm nhuần
tinh thần giải thoát từ bi của Phật giáo,
truyền bá một quan niệm vô thể về
Thượng đế giống như quan niệm về pháp
thân hay chân như của Phật giáo chẳng hạn, th́
chính người ấy đă hoằng
Nhân
loại hiện giờ đang khổ đau v́ cố
chấp, v́ riêng rẽ, v́ tị hiềm, v́ chủng
tộc, v́ đảng phái, v́ địa phương, v́ nhân
ngă. Văn hóa nhân loại phải đi về tinh thần
tổng hợp để phụng sự nhân loại. Đạo
Phật với tâm niệm từ bi, với thái độ
cởi mở, với ư nguyện độ sinh có thể có
đủ phong độ và điều kiện để
đứng ra cùng với những tư trào trọng đại
nhất của kho tàng tri thức nhân loại hiện
đại, chủ xướng và lănh đạo cho
cuộc tổng hợp vĩ đại đó của
văn hóa nhân loại. Trên niềm thao thức thực
hiện ư nguyện ấy, chắc chắn bạn sẽ có
những khám phá bất ngờ và kỳ diệu khi trở
về nghiên cứu thực tại Phật giáo qua hai ngàn
năm trăm năm lịch sử.
Nếu
đạo Phật phát xuất từ sự sống con
người để nhằm đáp ứng những
nguyện vọng thâm sâu nhất của con người, th́
đức Phật chính thực là người yêu của
nhân loại.
Ngài
tượng trưng cho những tinh hoa đúc kết nên
bởi những phần cao khiết nhất và sáng mạnh
nhất của con người và bởi v́ Ngài đích thực
là một con người nên Ngài đă hiểu con
người một cách thấu triệt. Dạy
đạo giải thoát cho chúng ta Ngài là một bậc
Thầy, nhưng nh́n chúng ta, Ngài có ánh mắt từ ḥa và
thân mật của một người bạn sống
giữa xă hội loài người, hiểu biết con
người, và thắm thiết t́nh người.
Cho
nên cái ư tưởng cho rằng Ngài là một nhân vật
thần linh vạn năng từ một cơi trời xa
hiện về để ban phúc trừ họa là một ư
tưởng sai lạc. Thần linh không hiểu
được con người, không biết
được ư nguyện và tâm lư con người. Ta
mến yêu đức Phật v́ bản thân Ngài là một
thực thể đúc kết bằng những yếu
tố nhân bản và v́ trí tuệ, đức độ và
giáo lư Ngài là những châu ngọc đúc kết bằng
những chất liệu con người. Ta mến yêu
đức Phật bởi v́ ta có thể thấy ở Ngài
h́nh ảnh của chúng ta. Cũng bởi v́ vậy cho nên
trong suốt hai ngàn năm trăm năm lịch sử,
đạo Phật một nguồn sống tràn đầy
tính chất nhân bản. Đức Phật là người
khơi mở nguồn sống ấy, khơi mở
chứ không phải là hóa hiện và tạo dựng. Con
người khổ đau v́ con người sống xa
bản tính, sống ngược bản tính. Con
người không ư thức được thực thể
của chính ḿnh, không hiểu được ḿnh là ǵ. Nói tóm
lại con người không có được một
nhận thức rơ rệt về hiện hữu và bản
chất của hiện hữu. Đức Phật đă
khám phá trên bước đường tri hành những phương
pháp giúp Ngài đi đến sự trực nhận giá
trị và bản chất của hiện hữu. Tiếp xúc
thẳng với ḍng sinh lực mầu nhiệm ấy, tâm
linh Ngài đột nhiên trở thành cao cả, sáng tỏ,
nhân cách Ngài trở thành siêu việt, vĩ đại. Và trên
lịch sử, bỗng nhiên nhân loại trông thấy ḍng
sinh lực nhiệm mầu kia hiển lộ sung măn và linh hoạt
nơi con người đức Phật. Bỗng
nhiên bản thân của đức Phật trở thành một
hiện tượng sinh hoạt linh diệu và ḍng
đạo pháp được khơi mở từ con
người của Ngài. Một ngàn hai trăm năm
mươi vị Tăng sĩ bao quanh Ngài, nh́n vào nhân cách
Ngài, nương vào đạo phong Ngài, tiếp nhận
sức sống mănh liệt của tâm linh Ngài để mà
sinh hoạt, để mà xây dựng nếp sống của
chính ḿnh. Bài thuyết pháp hùng hồn hơn hết, tha
thiết hơn hết là sự sống của chính
đức Phật. Người đương thời
nương vào nhân cách của đức Phật mà
sống, mà tu tập, mà chứng ngộ. Hàng trăm năm
sau, dư ảnh của nhân cách ấy vẫn c̣n
hướng dẫn được hàng vạn người
sống theo nguồn đạo từ bi. Người ta có
thể không cần nghe một bài kinh, dự một buổi
thuyết pháp : Người ta chỉ cần nghe nói
đến nhân cách của đức Phật là có thể
phát tâm sống được đời sống Phật
tử rồi.
Thế
cho sự xuất hiện của đức Phật quan
trọng hơn là chính sự xuất hiện của Tam
Tạng giáo điển. Đọc thuộc ba tạng kinh
điển chưa chắc đă bằng được
sống một vài giờ bên cạnh Ngài. Chỉ cần
được nh́n h́nh dáng Ngài, được tiếp
nhận cái nh́n của Ngài trong chốc lát, được
nghe Ngài nói một vài lời ngắn ngủi, ta có thể
thấm nhuần được một cách sâu xa trong biển
đạo pháp của Ngài hơn là đọc tụng
nhiều lần những kinh điển lưu truyền.
Như vậy có nghĩa rằng bản chất của
đạo Phật nằm trong sự sinh hoạt theo chính
pháp, thể hiện nơi những con người sinh
hoạt theo chính pháp. Cho nên ở thời nào có xuất
hiện cao tăng nhiều nhất, thời nào sinh hoạt
chính pháp được thể hiện trong quần chúng
nhiều nhất là thời ấy Phật giáo hưng
thịnh nhất.
Tam
Tạng giáo điển có giá trị như những ghi chép
đạo pháp. Mà đă là ghi chép th́ chỉ là ghi chép mà thôi.
Không bao giờ ta có thể ghi chép được bản
thân của đạo pháp; người ta chỉ ghi chép được
những mảnh rời rạc và cứng đọng
của đạo pháp mà thôi.
Bởi
vậy, người nào muốn hiểu được đạo
pháp một cách thấm thiết th́ người ấy
phải thể nhập đạo pháp, phải tiếp
nhận cho được sinh khí đạo pháp, phải
thực hiện đạo pháp. Tam Tạng giáo điển
chỉ là những phương tiện giúp đỡ,
hướng dẫn, chỉ là những công án cần
thiết cho sự suy tư và thể nhập.
Người
xưa nói rằng tri đạo tức là học
đạo, kiến đạo, tu đạo và chứng
đạo. Chữ tri đă có một phạm vi
rộng răi thế ấy th́ để đi đến
kết quả của sự học đạo, ta phải
có những điều kiện tâm lư cần thiết như
thành khẩn, vô tư ư, không cố chấp, không h́nh
thức và sẵn sàng thể nhập.
Có
được nhận định như thế th́ ta mới
đến gần được đức Phật.
Nếu không, càng học hỏi, càng phân tích, càng nghiên tầm
ta càng đi xa đạo Phật. Phải nhận
định rằng đức Phật và những thế
hệ Phật tử nối tiếp Ngài là những
thực hiện linh động của ḍng sinh hoạt
đạo pháp. Nh́n vào ḍng sinh hoạt ấy, thể
nhập ḍng sinh hoạt ấy, và xem xét lại những ghi
chép của kinh điển ta có thể thực chứng
được những nguyên lư Phật học. Thực
chứng được những nguyên lư ấy rồi, ta
mới xây dựng cho ta và cho những con người
của xă hội ta, của thời đại ta một
quan niệm nhân sinh có thể đáp ứng được
nhu cầu sinh hoạt tiến bộ hướng
thượng của con người thời đại. Có
hai điều lầm lỗi to lớn có thể làm
ngưng đọng gịng sinh hoạt đạo pháp và
cũng có thể làm tàng ẩn và mai một bản lai
diện mục (mặt mũi xưa nay) của chân lư :
đó là đặt đạo Phật dưới sự
nghiên cứu của ḿnh như một đối
tượng cứng nhắc bất biến, và bảo
thủ những h́nh thức sinh hoạt không c̣n thể
hiện được bản chất của đạo
pháp.
Như
chúng ta đă biết, đạo Phật là một thực
tại linh động ta cần thể nhập nó
để hiểu biết nó và như vậy ta không thể
coi nó như một đối tượng cứng nhắc
và bất biến. Nếu ta đặt nó dưới kính
hiển vi của sự phân tích, ta sẽ mất nó;
hoặc giả ta chỉ c̣n nắm được
những cái xác khô cứng của nó. Trong kinh có câu chuyện
một ông vua sai quần thần chẻ vụn một cây
đàn để t́m những tiếng đàn. Kinh
điển đạo Phật cũng thế, những h́nh
thái sinh hoạt của đạo Phật cũng thế.
Ta không thể chẻ những thứ ấy ra để
t́m đạo pháp. Ta phải linh động để
tiếp nhận đạo pháp qua những thứ ấy,
bằng thể nhập, bằng thực hiện, bằng
cảm thông.
Xă
hội luôn luôn chuyển biến v́ các cơ cấu xă
hội luôn luôn chuyển biến. Các yếu tố tạo
nên những sinh hoạt xă hội như văn hóa, kinh
tế, chính trị, nhân chủng không phải ở đâu
cũng như ở đâu, thời nào cũng như
thời nào. Mà các cơ cấu xă hội đă biến
chuyển th́ những h́nh thức sinh hoạt cũng
phải biến chuyển. Một xă hội mới cần
có những tương quan sinh hoạt mới. Giữ măi
những h́nh thức sinh hoạt không c̣n đáp ứng
được với nhu cầu sinh hoạt mới
tức là làm một công việc vụng dại. Những
h́nh thức sinh hoạt của đạo pháp là để
thực hiện bản chất của đạo pháp. Xă
hội đă thay đổi v́ những h́nh thức sinh
hoạt cũ không phù hợp với xă hội nữa, do
đó không thể thực hiện được bản
chất của đạo pháp nữa. Phải có những
h́nh thức sinh hoạt mới, một mặt đáp
ứng với nhu cầu của xă hội mới, một
mặt thể hiện được những nguyên lư
căn bản của đạo pháp. Nếu cố chấp
bảo thủ măi những h́nh thức sinh hoạt cũ
tức là vô t́nh (hay cố ư ?) muốn cho xă hội lùi
lại và làm cho đạo pháp khô héo trong những cái xác
cũ, những cái xác có thể rất cổ kính và sơn
phết rất đẹp đẽ. Đạo pháp
cần có những h́nh thức sinh hoạt mới
để được thể hiện trong xă hội
mới; khi ta cố thủ những h́nh thức cũ,
kết tội những h́nh thức mới th́ ta chận
đường không cho đạo pháp thể hiện và
như thế là ta có thể làm ngưng đọng gịng sinh
hoạt đạo pháp.
Ở
một h́nh thái sinh hoạt xă hội mà đạo pháp
chỉ c̣n là nguồn an ủi của một thế hệ
luống tuổi muốn sống những ngày c̣n lại
của đời ḿnh một cách yên ổn, một
phương tiện của một số người vin vào
để lăng xăng danh lợi, đạo pháp làm sao
thể hiện trọn vẹn ?
Ở
những h́nh thức sinh hoạt mà những thế hệ
trẻ tuổi không t́m thấy một lối đi sáng
của tương lai, không t́m thấy một chất
liệu để đốt lên ngọn lửa lư
tưởng trong tâm hồn mà chỉ thấy một chỗ
trú ẩn tuy an lành nhưng tạm thời - để chui
về trong cơn phong ba băo táp, th́ ta có thể nói rằng
đạo pháp đă được hiển lộ và
thực hiện toàn vẹn hay chưa ?
Nhận
thức chứa đầy đau xót, nhưng có thể là
khởi điểm cho những cố gắng mới,
nỗ lực mới.
Vấn
đề Phật giáo nguyên thỉ thường được
các học giả xem như là một vấn đề chính
yếu của Phật học. Có người nói rằng chính
Phật giáo nguyên thỉ mới là Phật giáo c̣n ngoại
giả đều là những thứ Phật giáo cải
cách. Có người lại lựa chọn ra một bên
những thứ ḿnh ưa thích và gọi đó là nguyên
thỉ, và bên c̣n lại kia th́ gọi là không nguyên thỉ.
Thực
ra ta phải định nghĩa thế nào là Phật giáo
nguyên thỉ. Trước hết ta phải trở lại
định nghĩa Phật giáo mà chúng tôi đă tŕnh bày trong
chương trước : Phật giáo là tất cả
những sinh hoạt nào của con người nhằm
biểu hiện những nguyên lư Phật học mà
đức Phật và các thế hệ Phật tử
kế tiếp đă thực chứng. Để thực
hiện những nguyên lư ấy, mỗi thời đại,
mỗi địa phương có những h́nh thái sinh
hoạt khác nhau, để một mặt thích ứng
với nhu cầu sinh hoạt của con người,
một mặt biểu hiện được ḍng sinh
hoạt chính pháp. Cho nên Phật giáo nguyên thỉ phải
được định nghĩa là những h́nh thức sinh
hoạt văn hóa trong xă hội Ấn Độ cách đây
hai ngàn năm trăm năm nhằm mục đích thể
hiện những nguyên lư Phật học để phụng
sự cho con người của xă hội ấy.
Trong
xă hội và thời đại của đức Phật,
những h́nh thức sinh hoạt văn hóa ấy đă
được coi là rất thích hợp cho con người,
đáp ứng được mọi nhu cầu trí tuệ,
t́nh cảm, lư tưởng và giải thoát của con
người; nói tóm lại đă thể hiện
được những nguyên lư Phật học mà
đức Phật đă chứng nghiệm. Nhưng các
cơ cấu xă hội luôn luôn biến đổi theo
luật vô thường : mỗi xă hội, mỗi thời
đại đều có những nhu cầu sai biệt, và
các sinh hoạt tâm lư, t́nh cảm và trí tuệ của con
người trong xă hội đó cũng biến chuyển
không ngừng. Cho nên, những h́nh thức sinh hoạt
gọi là Phật giáo nguyên thỉ không c̣n thích hợp
nữa, hoặc ít ra không c̣n thích hợp một cách hoàn toàn
nữa; do đó sự tạo dựng những h́nh thức
sinh hoạt Phật giáo mới là một sự tất
yếu, dĩ nhiên phải có, nếu người Phật
tử không muốn cho Phật chủng (hạt giống
đạo Phật) bị đoạn diệt. V́ vậy mà
chúng ta thấy có Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nam
tông, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo
Có
người nói rằng Phật giáo Nam tông mà hiện
thời đại biểu là phái Theravada là h́nh bóng bất
biến của Phật giáo nguyên thỉ. Nói như vậy
là không hiểu ǵ về Phật giáo nguyên thỉ cả. Làm
sao mà những h́nh thức sinh hoạt văn hóa của
một xă hội cách đây hai ngh́n năm trăm năm lại
có thể áp dụng thích nghi với những nhu yếu sinh
hoạt của một xă hội mới hôm nay ? Phật giáo
Tích Lan, Cam Bốt chẳng hạn, đă biến
đổi rất nhiều trong nội dung cũng như
ngoài h́nh thức. Ta cần thêm rằng phái Theravada chỉ là
một trong nhiều học phái khác của Phật giáo Nam
phương trong đó ta nên kể phái Sarvastivada, một
học phái đă hưng thịnh trong suốt mười
lăm thế kỷ ở Mathura, Gandhara và Kashmir.
Điều đáng chú ư là con người phương Nam,
nghĩa là con người những xứ nhiệt
đới, bao giờ cũng thiên về sinh hoạt
nội tâm hơn, và ít ưa hoạt động hơn
người phương Bắc. V́ thế Phật giáo Nam
phương có tính các nội hướng và bảo thủ
hơn. Cho nên, một ít h́nh thức sinh hoạt nguyên
thỉ c̣n có thể bảo tồn được ở các
xứ ấy. Và khi nh́n những h́nh thức kia người
ta cứ tưởng lầm Phật giáo Nam phương là
Phật giáo nguyên thỉ. Kỳ thực trên ḍng lịch
sử truyền bá và sinh hoạt, không giờ khắc nào mà
Phật giáo không chuyển biến. Không chuyển biến tức
là không sinh tồn, bởi v́ sinh tồn là chuyển biến
vậy (sinh sinh chi vị dịch). Điều hệ
trọng nhất là qua tất cả các sinh hoạt luôn luôn
chuyển biến ấy của các nền Phật giáo,
người ta đều có thể nhận thấy bản
chất của đạo Phật : đó là những nguyên
lư căn bản để tạo dựng nền sinh
hoạt đạo pháp, là những căn nguyên khơi
mở ḍng sinh hoạt đạo pháp.
Những
nguyên lư căn bản ấy mới chính là bản chất
của đạo Phật. Nghiên cứu Phật giáo
nghĩa là cố đạt tới những nguyên lư ấy,
những nguyên lư rất linh động ấy, chứ không
phải là chép lại những h́nh thái sinh hoạt trong
một giai đoạn, trong đó kể cả kinh
điển, chữ nghĩa. Kinh điển chữ
nghĩa cũng là để đối trị với
căn bệnh của thời đại, của con
người trong thời đại. Ta phải đi xuyên
qua kinh điển để t́m những nguyên lư sinh
hoạt kia. Kinh Trường A Hàm (tương
đương với Dighanikaya, bản dịch của Pali
Text Society) chẳng hạn đă nhắm nhiều tới
mục đích chỉ vạch những kiến thức sai
lạc của các nền tư tưởng học phái
đương thời. Nếu Trường A Hàm
được thuyết vào thế kỷ XX, thế nào ta
cũng được đọc về những sai
lạc căn bản của thuyết Mác xít, thuyết
Hiện sinh và mọi tà thuyết khác hiện thời.
Như thế kinh điển, cũng như giáo
điều căn cứ trên kinh điển, cũng như
những h́nh thức sinh hoạt Phật giáo xây dựng trên
các giáo điều ấy, đều chỉ là h́nh thức,
là phương tiện biểu hiện cái nội dung quan
trọng là bản chất Phật học, là những nguyên
lư Phật học. Bản chất ấy, những nguyên lư
ấy, ta thấy ở bất cứ một nền
Phật giáo nào : ở Phật giáo Nam phương cũng
như ở Phật giáo Bắc phương, ở Phật
giáo Tây Tạng cũng như ở Phật giáo Nhật
Bản, ở Phật giáo Không tông cũng như ở
Phật giáo Hữu tông. Bản chất ấy là những
hạt giống, hạt giống Bồ Đề. Các
hạt giống ấy, tùy theo miếng đất ta gieo,
sẽ mọc lên thành nhiều cây Bồ Đề khác nhau.
Khí hậu màu mỡ, đất đai sẽ qui
định những chỗ khác nhau ấy, nhưng bao
giờ cây Bồ Đề cũng vẫn là cây Bồ Đề.
Chứ không phải chỉ có một cây ấy, trồng
ở thời đại ấy, trên miếng đất xă
hội ấy mới được gọi là cây Bồ
Đề.
Huống
nữa, đi sâu vào nội dung, ta thấy những danh
từ Nam tông, Bắc tông, Đại thừa, Tiểu
thừa chỉ gây những khái niệm hết sức
tương đối. Ở Phật giáo Bắc
phương người ta thấy có những tông phái Tiểu
thừa, những kinh điển Tiểu thừa, cũng
như ở Phật giáo Nam phương người ta vẫn
thấy tư tưởng Đại thừa và lối hành
tŕ Đại thừa. Ở Cam Bốt chẳng hạn, vào
khoảng năm 1360 của kỷ nguyên Phật giáo, tức
là vào khoảng năm 800 của kỷ nguyên Tây lịch, giáo
lư Đại thừa đă được phát đạt
một thời. Kinh điển Pali và những sinh hoạt
của Phật giáo Nam phương ngày xưa đă có
hơn một lần truyền đến miền Bắc
Việt Nam, nhưng có lẽ v́ thủy thổ không thích
hợp, nên những hạt giống kia không bắt rễ
đâm chồi được. Những cố gắng
hiện thời của Tăng sĩ Theravada ở Nam phần
Việt Nam cũng chưa đạt đến những
kết quả nào đáng kể, có lẽ v́ Việt Nam
từ lâu đă thuộc về khu vực văn hóa Bắc
phương.
Trong
giai đoạn lịch sử hiện tại, người
Phật tử của Phật giáo Nam tông đă nhận
thấy cần hướng nhiều hơn về những
hoạt động nhập thế, cũng như
người Phật tử của Phật giáo Bắc tông
nhận thấy cần tăng cường năng lực
sinh hoạt nội hướng để đủ
chất liệu nuôi dưỡng những hoạt động
nhập thế của ḿnh. Như vậy ranh giới
Bắc, Nam, Đại, Tiểu đang đi dần
đến sự xóa bỏ, và Phật giáo chỉ là
Phật giáo với tất cả những h́nh thái có thể
phục vụ sự giải thoát con người về
mọi mặt.
Đứng
về phương diện kinh điển, ta phải
thấy rơ rằng tuy cả bốn bộ Tứ A Hàm
của tạng kinh Bắc phương cũng như
bốn bộ Nikaya của tạng kinh Ba lị đều
là những kinh điển căn bản của Phật
giáo hiện giờ, nhưng tạng kinh Nam phương
đă mang nặng màu sắc của nền văn học
Abhidharma nhiều lắm. Nền văn học Abhidharma
nhắm mục đích ghi chép nhận thức và quan
điểm của học giả Nam tông, do đó bốn
bộ Nikaya hiện thời đều được xem
như là đă được chỉnh lư theo tinh thần
Abhidharma. Vào buổi đầu của nền văn
học Phật giáo Nam phương, chưa có sự phân
biệt rơ rệt về giới hạnh kinh và luận. Có
nhiều tác phẩm thuộc về luận (sastra)
được sáng tác mô phỏng theo h́nh thức kinh (sutra).
Qua kết quả của sự nghiên cứu ngày nay, ta có
thể khám phá ra được nhiều kinh vốn chính là
luận như kinh "Chúng tập" của
Trường A Hàm, "Vệ đà tư tha" của
Giới
Phật tử thường nói đến những Pháp
ấn như "chư hạnh vô thường",
"chư pháp vô ngă", "niết bàn tịch
tĩnh" hay những nguyên lư căn bản như Tứ
Diệu Đế, Bát Chánh Đạo tức là những
đặc chất của Phật giáo. Ở bất cứ
một nền giáo lư nào, ở bất cứ một sinh
hoạt chính pháp nào, những pháp ấn ấy, những
nguyên lư ấy vẫn được xem như là căn
bản. Ĺa những đặc chất kia, phản bội
những nguyên lư kia, mọi sinh hoạt mệnh danh là
Phật giáo đều không phải là Phật giáo, mà là tà
đạo.
Như
thế Phật giáo là tổng thể của mọi giáo lư,
mọi sinh hoạt văn hóa hiện hữu của nhân
loại trên khắp thế giới, không phân biệt
thời gian, địa phương, miễn nhắm
tới sự phục vụ con người bằng cách
hướng dẫn con người sống đúng theo
những nguyên lư căn bản của Phật học. Mong
rằng một nhận thức như thế sẽ
đưa chúng ta đến gần đạo Phật
hơn và xóa bỏ những quan niệm hẹp ḥi
vướng bận h́nh thức, vướng bận
chủ quan thiên lệch. Để t́m đến những
nguyên lư Phật học, ta phải đi sâu vào mọi
thực tại sinh hoạt của Phật giáo; qua các
thực tại sinh hoạt khác biệt đó ta mới có
đủ yếu tố để suy luận, để
chứng nghiệm, để có một nhận thức
đầy đủ. Một giọt nước có thể
đủ để cho ta biết được thế
nào là đại dương, nhưng chấp rằng
giọt nước là đại dương, ấy là
điều nên tránh vậy.
Nhận
thức rằng đạo Phật là một thực
tại linh động ta phải nghiên cứu đạo
Phật trong quá tŕnh lịch sử của nó. Điều
quan trọng không phải là tách rời ra khỏi ḍng sinh
hoạt Phật giáo một ít hiện tượng
để phân tích, suy luận, mà là cố gắng nhận
thức được bản chất của đạo Phật
trong suốt ḍng liên tục lịch sử của
đạo Phật. Có như thế ta mới mong
đạt đến những nguyên lư Phật giáo làm
chất liệu cho ḍng sinh hoạt hai ngàn năm trăm năm
lịch sử kia.
Chân
lư, trước hết, là những nguyên lư mà ta phải hành
động cho phù hợp, nếu ta muốn đi
đến thành công. Thành công ở đây có nghĩa là
đạt tới sự an lạc và trí tuệ, hiểu
theo nghĩa đạo Phật. Nhưng nếu bối
cảnh hành động không đâu giống đâu, chủ
thể hành động không ai giống ai, điều
kiện hành động không lúc nào giống lúc nào, th́,
để phù hợp với những nguyên lư ấy, con
người phải linh động trong khi đạt
đến mục đích của hành động
chứ không phải chấp chặt vào những h́nh thái
của hành động. Chấp chặt như thế,
kết quả có khi về trái ngược với ư
nguyện. Cho nên, chân lư là những ǵ hết sức linh
động và cũng hết sức thực dụng, nói
như William James. Căn cứ trên nhận định
đó, đức Phật đă thành lập một nền
đạo lư hướng dẫn, nhắm mục
đích giúp đỡ và d́u dắt con người trên quá
tŕnh hành động, chứ không ngây thơ đặt ra
những giáo điều cứng nhắc để mong có
thể áp dụng hoàn mỹ cho tất cả mọi con
người, mọi căn cơ, mọi thời
đại. Cố nhiên mỗi căn cơ hay mỗi
thời đại cần phải xây dựng cho ḿnh
những giáo điều phù hợp với chính ḿnh
để đối trị thích ứng với
trường hợp ḿnh, xây dựng bằng những nguyên
lư hướng dẫn linh động ấy. Và v́ vậy,
Phật Pháp có thiên h́nh vạn trạng. Các câu nói bất
hủ : "Phật Pháp thị thế gian pháp"
(Phật Pháp là thế gian pháp), "Phật Pháp thị
bất định pháp" (Phật Pháp là bất
định pháp), "Phật Pháp tại thế gian bất
ly thế gian giác" (Phật Pháp ở trong thế gian và
không ly khai với những điều giác ngộ của thế
gian), "Nhất thiết thế gian pháp tức thị
Phật Pháp" (tất cả các thế gian pháp
đều là Phật Pháp) đều để phát huy và
diễn tả ư niệm trên. Đạo Phật có
đến "tám vạn bốn ngh́n" pháp môn khác nhau
để đối trị với "tám vạn bốn
ngh́n" căn cơ khác nhau. Con số "tám vạn
bốn ngh́n", trước sau, chỉ là một con
số tượng trưng.
Tính
cách linh động ấy của những nguyên lư Phật
giáo lại đồng thời chứng minh một cách rơ
rệt tính cách thực dụng căn bản của
đạo Phật. Đạo Phật nhắm đến
những vấn đề thực tại của sự
sống con người, chứ không nhắm đến
sự biện giải những vấn đề siêu h́nh,
những thiết tưởng huyền đàm không thể
kiểm nhận bằng thực nghiệm. Biết bao nhiêu
lần các vị đệ tử của Phật đă
đặt những câu hỏi siêu h́nh, nhưng Ngài
đều không nói. Ngài không muốn đệ tử Ngài
đắm ch́m trong những suy luận siêu h́nh, mất th́
giờ, không bổ ích. "Này các vị, đừng
thắc mắc rằng thế giới này là hữu hạn
hay vô hạn, cơi đời này là hữu cùng hay vô cùng. Dù nó
là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng, th́
điều mà các vị phải thừa nhận
trước hết vẫn là : Cuộc đời đang
dẫy đầy những đau khổ" (Kinh A Hàm).
Cuộc đời khổ đau, bất tịnh, vô
thường, vô ngă. Hăy chuyển hóa cuộc đời, hăy
chuyển hóa bản thân, hăy giải thoát vô minh dục
vọng để đạt đến an lạc và trí
tuệ. Đừng mong đạt tới chân lư tuyệt
đối khi mà công cụ trí tuệ c̣n yếu
đuối, mờ ám, vô năng. Giải thoát trí tuệ ra
khỏi vô minh và dục vọng, phát triển trí tuệ
đến trạng thái vô lậu (trạng thái không c̣n
bị rơi vào mê lầm nữa) th́ tự nhiên chân lư
hiển lộ. Việc cần thiết và cấp bách là
thoát khỏi vô minh dục vọng, thoát khỏi khổ
đau. Một người bị trúng tên độc
phải rút ngay mũi tên ra để mà buộc thuốc,
chứ không nên chần chừ mà nói : "Khoan nhổ
mũi tên đă ! Hăy chỉ cho tôi biết ai đă bắn
mũi tên đó, tên họ là chi, có vợ con chưa, bao nhiêu
tuổi…". Chỉ có người ngu muội mới hành
động như vậy, và thái độ của kẻ
không chịu giải quyết thực tế những
vấn đề hiện thực mà cứ hay phiêu lưu vô
vọng trong thế giới suy tưởng siêu h́nh cũng
không khôn ngoan hơn. Một hôm đức Phật từ
trong rừng trở về tịnh xá, tay cầm một
nắm lá Simcapa. "Này các vị, Ngài đưa nắm lá
lên cao, các thầy nghĩ sao ? lá Simcapa
trong tay ta nhiều hay là lá Simcapa ở trong rừng nhiều
? - Bạch đức Thế Tôn, lá trong tay Ngài ít, lá trong
rừng nhiều. - Cũng như thế đấy, các
vị; những điều ta đă chứng ngộ th́
quả thực là nhiều như lá trong rừng, nhưng
những điều ta đem ra chỉ bảo cho các vị
th́ ít như lá trong tay ta đây. Tại sao ta không dạy
tất cả các điều kia ? V́ những điều kia
vô ích, không giúp các vị tiến tới giải thoát. Ta
chỉ dạy những điều có thể giúp các vị
giải thoát mà thôi". Tất cả những giáo lư
đạo Phật đều mang màu sắc thực
dụng. Những hệ thống triết lư hướng
dẫn được hoàn thành trong quá tŕnh truyền giáo,
như hệ thống Pháp tánh và hệ thống Duy thức,
tuy đôi khi có mang màu sắc siêu h́nh học, nhưng không
phải là những hệ thống lư luận siêu h́nh
(systèmes logico - métaphysiques) mà là những hệ thống tâm lư
siêu h́nh (systèmes psycho - métaphysiques) bắt nguồn từ
nhận thức tâm lư để đi sâu vào thực
nghiệm tâm linh và thực chứng bản thể. Trong
triết học Tây phương, ta không bao giờ thấy
có một sự dung hợp lạ kỳ giữa tâm lư, tâm
linh và thực nghiệm siêu h́nh như ở Duy Thức
Học đạo Phật chẳng hạn.
Nhưng
các hệ thống triết học kia không phải
được dựng nên để giải đáp các
thắc mắc siêu h́nh, mà là để hướng dẫn.
Đó là những "ngón tay chỉ mặt trăng".
Đó là những "ảnh tượng chân lư", nói
như Thái Hư Pháp Sư, mà không phải là chân lư.
Nương vào ảnh hưởng của chân lư là
để đạt đến chân lư; mà ta chỉ
đạt tới khi ta rời bỏ được
ảnh tượng. Các hệ thống kia có giá trị
như những đồ án dùng để đi t́m chân lư;
chấp vào đồ án th́ không bao giờ thấy
được chân lư, mà bỏ đồ án đi th́
cũng vô vọng (y kinh giải nghĩa, tam thế Phật
oan; ly kinh nhất tự tức đồng ma thuyết).
Cho nên ở bất cứ một giáo hệ nào của
Phật giáo, ta cũng thấy rơ tính cách thực dụng
linh động của đạo Phật. Ta không bao
giờ thấy những câu như: "Chân lư là thế
nầy, chân lư là thế kia", mà chỉ thấy tinh
thần của những câu như : "Nếu làm như
thế nầy, ta sẽ đến chỗ nầy, nếu
làm như thế kia; ta sẽ đạt đến chỗ
kia", hay "Nếu muốn đi đến đó th́
phải hành động như thế này, nếu muốn
đi đến chỗ kia th́ phải hành động
như thế kia". Ĺa tính cách thực dụng ấy,
tất cả những lư thuyết nào dù được
mệnh danh là Phật giáo đều không phải đích
thực là Phật giáo. Chân lư Phật học, để kết
luận, bao giờ cũng linh động và thực
dụng, và như thế con người một mặt
phải thực tế và thành khẩn, một mặt khác
phải khai thác khả năng nhận thức khoáng
đạt của nội tâm mới mong bắt gặp
được nó. Sự hiển lộ của chân lư
chỉ có thể thực hiện khi ta đă phủi bỏ
những cố chấp h́nh thức, và chỉ khi nào chân lư
hiển lộ ta mới t́m thấy lẽ sống chân
thực và ư nghĩa.
Dẹp
bỏ tất cả những huyền đàm siêu h́nh, con
người trở về thực tại để
giải quyết những vấn đề của thực
tại. Cuộc đời đầy những khổ
đau. Chúng ta đang quằn quại trong khổ đau,
hốt hoảng như đang ở trong một ngôi nhà cháy,
chịu đựng không biết bao nhiêu năo loạn và xót xa.
Mũi tên độc khổ đau đang làm cho chúng ta rên
siết, hăy t́m cách nhổ mũi tên đó ra khỏi thân
thể của nhân loại. Chúng ta phải ư thức
rằng chúng ta đang khổ đau. Đó là nhận
thức căn bản. Làm sao giải quyết vấn
đề khổ đau thực tại nếu chúng ta không
có ư thức về khổ đau thực tại ? Làm sao có
thể chữa lành được bệnh khi ta không
biết là ta đang có bệnh, hoặc giả biết là
bệnh nhưng không rơ là bệnh ǵ ?
Người
Phật tử không phải chỉ cần hiểu trên lư
thuyết rằng cuộc đời là khổ đau.
Người Phật tử phải thường trực ư thức
và thực nghiệm những khổ đau của cuộc
đời. Chừng nào khổ đau vẫn c̣n là một vấn
đề phải giải quyết th́ chừng ấy
đạo Phật c̣n có sứ mệnh, người
Phật tử c̣n là người Phật tử. Mất liên
lạc với khổ đau, là mất tất cả. Lư
tưởng giải thoát được nuôi dưỡng
bằng những chất liệu khổ đau, cũng
như hoa sen được nuôi dưỡng bằng
chất bùn. Chừng nào anh không c̣n thấy khổ đau th́
chừng ấy anh không c̣n là Phật tử. Hoặc giả
anh đă giải thoát khổ đau cho anh và mọi
người chung quanh anh, hoặc giả sống giữa
khổ đau mà anh không hay không biết. Ngoài hai trường
hợp ấy, anh phải khổ đau, phải ư thức
về sự đau khổ của anh và của nhân loại
nếu anh muốn đạt đến lư tưởng
giải thoát khổ đau cho anh và nhân loại. Cũng như
một dân tộc muốn tranh đấu để thoát
khỏi ách nô lệ ngoại bang th́ phải luôn luôn ư
thức rằng ḿnh đang bị nô lệ ngoại bang. Ư
thức ấy mất đi th́ sự tranh đấu không
c̣n và dân tộc ấy thất bại. Con người
cũng vậy, muốn giải thoát khổ đau phải
luôn luôn ư thức và thực nghiệm khổ đau.
Một
khi ta bưng bít tâm hồn, một khi ta không đủ can
đảm nh́n vào thực trạng của hiện hữu,
một khi ta vùi thân trong cuộc sống của dễ dăi,
của áo ấm cơm no, ta không nhận thức
được chân tướng của cuộc đời
và ta có ảo tưởng rằng cuộc đời là
hạnh phúc. Cũng như dân tộc kia nô lệ khổ
đau mà không biết ḿnh nô lệ khổ đau. Ư thức
về khổ đau cố nhiên luôn luôn gây cho ta một xót
xa trong nội tâm, nhưng như chúng tôi đă nói, đó là những
chất liệu cần thiết để nuôi dưỡng
lư tưởng. Không phải chỉ có lư tưởng giải
thoát mới cần được nuôi dưỡng bằng
ư thức khổ đau. Lư tưởng nào cũng phải được
nuôi dưỡng bằng ư thức khổ đau. Cái khổ
đau xót xa của một Việt
Đức
Phật luôn luôn nhắc cho đệ tử Ngài thực
nghiệm khổ đau, ư thức một cách thâm thiết
về khổ đau. Không phải chỉ là những
khổ đau nhỏ bé của riêng ḿnh mà là cả thực
tại khổ đau to lớn của nhân loại. Các
vị Tỳ Kheo phải sống cuộc đời
"tam thường bất túc" (ba việc thường
là cơm ăn, áo mặc, nhà ở không bao giờ
đầy đủ quá) không phải là để ép xác
khổ hạnh mà là để sống măi trong ư thức
minh mẫn về khổ đau của cuộc đời,
để đừng có những ảo tưởng sai
lạc về cuộc đời. Sống cuộc
đời bần tăng khất sĩ là để
tiếp xúc trực tiếp với quần chúng khổ
đau, đau niềm đau của họ, thấy cái
thực trạng sinh hoạt tâm lư xă hội của họ.
Chỉ cần mỗi ngày ba bữa cơm no, một
chức tước nhỏ bé là ta có thể dễ dàng
mất hết liên lạc với thực trạng khổ
đau của cuộc đời, và như thế ta đă
đánh mất lư tưởng của ta và đánh mất
luôn bản thân ta nữa. Cho nên nếp sống tăng
sĩ trước hết là nếp sống nuôi
dưỡng ư thức khổ đau, phải tự
nguyện tiếp xúc với đau thương của
cuộc đời và đồng lao cộng khổ với
quần chúng. Một nếp sống trưởng giả,
đài các không phải là nếp sống tăng sĩ.
An
lạc chân thật chỉ có thể phát xuất từ ư
thức khổ đau. Điều này chỉ có những
người đă sống trong cuộc đời
một cách rào rạt mới có thể hiểu nổi.
Đó là một sự thực mà các bậc hiền nhân đều
công nhận. Khổ đau làm con người trưởng
thành, không có khổ đau, con người không thành con
người. Nhưng con người cần biết
sống với khổ đau, chứ không phải
chỉ cần sống trong đau khổ.
"Niết bàn không ly khai với sinh tử khổ
đau" chính là ư ấy.
Cả
một nền đạo học được thành
lập trên nhận thức căn bản "cuộc
đời đầy khổ đau" kia. V́ đạo
Phật muốn nuôi dưỡng măi ư thức khổ đau
làm chất liệu cho lư tưởng giải thoát, cho nên
nhiều người đă nghĩ rằng đạo
Phật bi quan. Thực ra đạo Phật không bi quan, mà
cũng không lạc quan. Bi quan bao hàm một ư niệm chán
nản, tuyệt vọng. Đạo Phật nhận
thức khổ đau để mà giải quyết khổ
đau, chứ không phải để thở dài mà buông xuôi
hai tay. Đạo Phật đ̣i hỏi can đảm,
đ̣i hỏi kiên nhẫn, đ̣i hỏi đại hùng
đại lực. Bi quan hay lạc quan đều là
những ǵ quá dễ dăi nông cạn. Không lạc quan một
cách ngây thơ v́ một sự lạc quan như thế
chứng tỏ thiếu nhận thức về thực
tại của hiện hữu; không bi quan một cách
yếu đuối v́ một sự bi quan như thế
chứng tỏ sự thiếu nhận thức về
khả năng bất diệt của con người.
Đạo Phật b́nh thản nhận thức và cương
quyết hành động.
Cho
nên nghĩ rằng cửa chùa là nơi mà người ta t́m
đến để trốn tránh khổ đau th́ thật
là oan uổng cho đạo Phật. Bởi v́ giáo lư
đạo Phật không dạy người ta trốn tránh
khổ đau. Mà nếu muốn chiến thắng khổ
đau, trước hết phải khinh thường
khổ đau, phải can đảm nh́n khổ đau tận
mặt, phải tuyên chiến với đau khổ.
Chúng ta chưa từng thấy ai sợ địch thủ
mà chiến thắng được địch thủ bao
giờ. Đừng biến đạo Phật của kiên
nhẫn, của quả cảm, của gian khổ, của
đại hùng đại lực thành một đạo
Phật của cải lương vọng cổ
"dưa muối chay ḷng, tu là cỗi phúc". Những
kẻ hèn nhát yếu đuối ấy không đáng
được gọi là tăng sĩ. Người
xuất gia phải là những vị đại
trượng phu.
H́nh
bóng của những con người yếu đuối,
mắt không dám nh́n thẳng, chân bước ngập
ngừng, sợ sệt khổ đau, khúm núm trước
quyền lực, cố nhiên không phải là h́nh bóng của
người tăng sĩ. H́nh bóng của người
tăng phải là h́nh bóng của một Long Thọ, một
Huyền Trang, một Vạn Hạnh, đời sống
th́ đạm bạc, gian khổ, ư chí th́ vững chắc
như kim cương, đức độ th́ khiêm cung,
nhẫn nhục, hành nguyện th́ rộng to như sóng
biển. Người xuất gia phải có đôi mắt
sáng chiếu niềm tin, chói ḷa nghị lực,
người xuất gia phải có nụ cười
bất diệt khinh thường khổ đau. Có như
thế mới làm biểu lộ chân tướng sáng rỡ
của đạo Phật. Mà muốn được
như thế, điều thiết yếu trước tiên
là nhận thức thực trạng khổ đau, sống
trong khổ đau, luyện ḿnh thành sắt thép. Ta chết đuối
trong đau khổ nhưng ta thành Phật cũng nhờ
đau khổ. Chính đau khổ, chữa lành đau
khổ, và khi đặt vấn đề nhận thức
khổ đau làm đệ nhất đế của
Tứ Diệu Đế, đức Phật quả đă
nhận thấy tầm quan trọng của sự thực
ấy một cách thâm thiết.
Không phiêu lưu trong những
thế giới luận thuyết siêu h́nh đạo
Phật trở về thực tại, khảo sát thực
tại và giải quyết vấn đề đau khổ
của thực tại.
Vậy đạo Phật chú
trọng hướng dẫn con người đi
đến một nhận thức chân xác về thực
tại để làm nền tảng cho những phương
pháp thực hành nhắm mục đích giải thoát t́nh
trạng khổ đau của con người trong thực
tại và trước thực tại.
Con người khổ đau v́
con người không có nhận thức chân xác về
thực tại và trước thực tại. "Nguồn gốc của mọi đau khổ
là vô minh", đức Phật đă lặp lại
nhiều lần câu nói quan trọng đó. "Cái khổ
của con lừa con lạc đà chở nặng, cái
khổ của kẻ bị trôi lăn trong lục
đạo chưa gọi là khổ. Ngu si không nhận
thức được thực tại, không biết
được hướng đi mới thật là đau
khổ". (Sa di luật giải).
Tất cả những
nghiệp nhân xấu ác và vụng của con người
đều bắt nguồn từ vô minh, từ chỗ không
nhận thức được chân tướng hiện
hữu thực tại. Nhận thức sai lạc ấy
được mệnh danh là biến kế chấp,
và đối tượng nhận thức sai lạc ấy
được mệnh danh là biến kế sở chấp.
Màn vô minh, dục vọng và
tư kiến đă khiến cho trí tuệ con người
yếu kém, vô năng, và v́ vậy mang nặng biến
kế chấp tính. Biến có nghĩa là cùng khắp tất
cả; kế chấp nghĩa là nhận thức và suy
tưởng sai lầm, rồi bảo thủ những
nhận thức và suy tưởng sai lầm ấy. Cố nhiên khi phần nhận thức khách quan
đă "sai lầm cùng khắp" như thế th́
phần đối tượng nhận thức khách quan
cũng không thể hiển lộ chân tướng
được. Và v́ vậy ta không nắm
được thực tại, ta chỉ tạo trong
nhận thức ta những h́nh bóng sai lạc méo mó về
thực tại, và do đó ta hành động sai lạc
để gặt lấy những nghiệp quả khổ
đau.
Ví dụ tôi
đi ngoài đường trong đêm tối, trong tâm
trạng ngại ngùng lo âu. Tôi thấy một sợi dây thừng
giữa đường. Trong tâm trạng ngại ngùng
lo âu đó, tôi mất b́nh tĩnh, hoảng hốt cho đó
là con rắn. Tôi hét lên, bỏ chạy, đâm đầu vào
bụi tre, rách da, sưng trán. Vậy là thực tại
"sợi dây thừng" đă bị nhận thức biến
kế chấp của tôi biến thành con rắn, không
hiển lộ được chân tướng của nó.
Kịp đến khi nghe
tiếng tôi là cầu cứu, mọi người đem
gậy và đuốc đèn ra, th́ chẳng thấy rắn
đâu, chỉ thấy sợi dây thừng. Bây giờ tôi
mới đủ sáng suốt để nhận thấy
sự thực dây thừng; trong trường hợp này,
nhận thức của tôi hết… vô minh, hết biến
kế chấp, và thực tại dây thừng được
hiển lộ trong nhận thức sáng suốt ấy. Những
con người phàm phu (có nghĩa là chưa đạt
đến tri thức giá ngộ của thánh nhân)
đều mang nặng ở nhận thức ḿnh những
lớp vô minh, dục vọng và tư kiến dày
đặc khiến cho nhận thức ấy trở thành biến
kế chấp và cũng do đó không thể nắm
được thực tại mà chỉ biến thực
tại thành những ảo tượng biến kế
sở chấp, những con rắn trong tưởng
tượng. Con người phải rũ
bỏ vô minh, dục vọng và kiến chấp bằng
học hỏi, bằng tham thiền, bằng suy tư,
bằng thăng hóa để trừ diệt dần
dần biến kế chấp tính của nhận thức,
để dần dần nắm được chân
tướng của thực tại.
Đức
Phật đă nhấn mạnh đến điểm này và
đă khai thị cho mọi người những tính cách
chân xác hiện thực của thực tại để giúp
người cởi bỏ biến kế chấp tính.
Ngài tŕnh bày
cặn kẽ tính cách y tha khởi của mọi
thực tại.
Y có nghĩa là căn cứ vào,
lệ thuộc vào, nương tựa vào. Tha
có nghĩa là tất cả hiện tượng khác. Khởi có nghĩa là phát sinh và hiện hữu.
Mọi hiện tượng đều phát sinh và hiện
hữu tùy thuộc và căn cứ vào tất cả
những hiện tượng khác, và như vậy là
đều có y tha khởi tính.
Điều
này tuy giản dị nhưng thật quan trọng.
Nhận
thức thực tại trong tính cách y tha khởi của nó,
ta sẽ gạt ra được không biết bao nhiêu là
cố chấp sai lạc của trí thức ta. Trước hết, là
những cố chấp về tính cách đồng nhất
và bất biến của các hiện tượng.
Vạn vật tùy thuộc nhau
mà sinh khởi và tồn tại, luôn luôn chuyển biến và
có tính cách vô thường. Nhưng trong nhận
thức ta chỉ có những khái niệm về những
sự vật đồng nhất bất biến; mỗi
khái niệm như thế được mệnh danh bằng
một từ ngữ nhất định. Ví dụ từ ngữ "xe đạp của tôi".
Từ ngữ này dùng để gọi một hiện
tượng phát sinh trong một thời gian nào đó,
tồn tại trong một khoảng thời gian nào đó. Trước
hết tôi nhận thấy từ ngữ "xe đạp
của tôi" gợi cho tôi khái niệm về chiếc xe
đạp của tôi, cả từ ngữ, cả khái
niệm đều như có những khuôn khổ nhất
định. Nhưng chính thực tại - chiếc xe đạp - th́ không thế. Nó luôn luôn
chuyển biến cho đến nỗi sau ba năm thay
sườn, thay lốp, thay sên, cũ kỹ, không giống
ǵ với chiếc xe đạp tôi mua mấy năm về trước,
mà nó vẫn mang tên "xe đạp của tôi" như
thường. Đó là chưa kể
đến sự cắt xén của trí thức. Tôi
chỉ nhận biết sự hiện hữu của
chiếc xe đạp khi nó thành h́nh, mà
không nhận biết được nó trong những nhân
duyên y tha của nó. Tôi đă cắt xén, trong thời gian và
không gian, một mảnh thực tại và đặt tên cho
nó, đóng khuôn nó lại trong một khái niệm, trong
một cái tên, trong khi chính nó, nó không hề chịu
đựng được sự khuôn khổ và luôn
chuyển biến trong thời gian và không gian. Trong từng
sát na, sự chuyển biến được thực hiện : luôn luôn có một cái ǵ đang
bớt đi và có một cái ǵ đang thêm vào. Và như
vậy, không có những hiện tượng bất
biến, chỉ có một thực tại bao la gồm có
nhiều gịng hiện tượng hỗ tương tác
động sinh khởi, bù đắp và thay thế nhau. Tri thức tôi hay cắt xén thực tại ra
từng mảnh và nhận thức từng mảnh bằng
từng khái niệm, hay suy tưởng bằng cách sắp
xếp so sánh các mảnh khái niệm ấy. Cho nên mọi
sai lạc siêu h́nh đều bắt nguồn từ chỗ
cắt xén thực tại ra từng mảnh và đặt
cho mỗi mảnh một cái tên cứng nhắc, trong
khi chính thực tại th́ linh động vô cùng và không
thể bị cắt xén mà không biến h́nh. Chắp
nối những mảnh cứng nhắc đó, và dựng
nó thành hệ thống, tôi đă đánh mất bản lai
diện mục (bộ mặt thực từ xưa đến
nay) của thực tại, và đă tạo ra một bộ
mặt kỳ lạ buồn cười cho thực
tại. Mà như thế tôi đă không nắm
được thực tại. Cái mà tôi
cho là thực tại không giống ǵ với bản thân
của thực tại cả.
Các hiện tượng trong
thực tại th́ linh động, chuyển biến và v́
vậy, vô thường. Các hiện tượng
ấy không phải bao giờ cũng như bao giờ, luôn
luôn hỗ tương tác động bù đắp nhau, phút
trước khác phút sau, và v́ vậy, vô nga. Ngă là tính cách đồng nhất của sự
vật. Nhưng thực tại chứng minh rằng
không có sự vật nào mà có tính cách đồng nhất cả : tất cả đều chuyển
biến. V́ vậy khi công nhận tính cách vô
thường, ta phải công nhận luôn tính cách vô ngă. Vô
thường và vô ngă chỉ là một :
đứng trên thời gian th́ gọi vô thường,
đứng trên không gian th́ gọi vô ngă. Các
hiện tượng vật lư sinh lư (sắc pháp)
đều vô thường, vô ngă. Các
hiện tượng tâm lư (tâm pháp) cũng đều vô
thường, vô ngă.
Mọi nhận thức không phù
hợp lư vô thường vô ngă đều sai lạc,
đều xa ĺa thực tại. Tất cả những
hệ thống đạo đức luân lư, tất cả
mọi phương pháp thực hành, cải tạo,
thăng hóa và tu chứng đều phải y cứ trên
nhận thức vô thường vô ngă. Nếu không, tất
cả đều đưa đến thất bại
bởi v́ đă chống đối thực tại.
Tŕnh bày tính cách y tha khởi
của mọi thực tại, đức Phật có
chủ ư đánh tan nhận thức sai lạc cố
chấp của con người, trao quyền cho con
người một phương pháp nhận thức
thực tại cao hơn phương pháp khái niệm suy
tư mang nặng tính cách lầm lạc chỉ biết
cắt xén thực tại và sắp xếp những bóng dáng
đă đổi h́nh của thực tại. Giáo lư Pháp
tướng Duy Thức tŕnh bày những sai lạc
cố hữu của nhận thức và giúp ta khảo sát thực
tại trên quan điểm hiện tượng luận
(point de vue phénoménologique) nhắm mục đích đả
phá lối nhận thức cố chấp thường, ngă.
Giáo lư Pháp Tánh Không Tuệ nhắm mục
đích làm cho vô lư đi (reductio ad absurdum) tất cả
những khái niệm của ta về sự vật
để giúp ta đạt đến một nhận
thức cao hơn. Giáo lư Như Lai tạng duyên
khởi cũng tŕnh bày luật trùng trùng duyên khởi,
để giúp ta thấy rơ ràng trong một có tất
cả, tất cả là một và như vậy cũng nhắm
đến mục đích cản ngăn không cho ta cắt
xén một cách sai lạc và ngây thơ cả ḍng thực
tại linh hoạt đang diễn biến hiện hữu.
Những
hệ thống giáo lư Bắc phương cũng như
những hệ thống giáo lư Nam phương đều
nhắm đến sự khai thị chân lư vô thường,
vô ngă, y tha khởi, nhân duyên sinh để giúp con
người lay đổ lề lối nhận thức
cũ, đào luyện một khả năng nhận
thức mới, hoặc gọi là nhất thiết trí,
hoặc diệu quan sát trí, vô lậu trí, bát nhă trí, vô phân
biệt trí… tùy theo trường hợp, đối
tượng và tŕnh độ tu chứng. Nhưng dù sao,
những giáo lư ấy cũng chỉ mới có thể gây
trong ta những biến động cần thiết
đủ để lay đổ lề lối nhận
thức cũ. Ta phải tỉnh dậy và theo sự
hướng dẫn của giáo lư mà sinh hoạt để
đào luyện nhận thức mới, mới mong trực
nhận thực tại trong tự tính y tha khởi của
nó. Không phải chỉ cần học tập kinh
điển mà tự khắc có được nhận
thức duyên sinh về sự vật. Chừng nào ta cảm
nhận, suy tư và hành động phù hợp hoàn toàn
với thực tại, chừng đó nhận thức duyên
sinh mới hoàn toàn thành tựu. C̣n nếu ta chỉ học
hỏi và công nhận tính cách y tha khởi của vạn
vật mà nhận thức và hành động ta vẫn sai lạc
không phù hợp với y tha khởi tính của hiện
tượng th́ ta chưa có thể nói rằng ta đă
chứng nghiệm chân lư y tha khởi. Ta mới
"kiến tạo" chứ chưa "chứng
đạo". Phải tập rèn đào luyện nhận
thức, nghĩa là phải tu tập diệt mê trừ
vọng hằng ngày để mỗi lúc một tiến
gần thực tại, mỗi lúc một nhận thức
thực tại rơ ràng hơn. Nhận thức vấn
đề mà không y cứ trên nguyên lư y tha khởi và hành
động phản lại với nguyên lư ấy th́ ta
sẽ thất bại chua cay trong cuộc đời và trên
lịch tŕnh tu chứng. Ngày nào mà ta nh́n một sự
vật, suy tưởng một vấn đề, thực
hiện một hành động, nhất nhất đều
phù hợp với nguyên lư y tha khởi, ngày đó ta mới chứng
được nguyên lư y tha khởi của thực tại.
Nói
tóm lại, tất cả mọi lầm lạc về nhận
thức và về hành động của chúng ta đều
phát nguyên từ chỗ không thấy rơ tính cách vô
thường, vô ngă, duyên sinh và y tha khởi của thực
tại. Nhân sự giới muốn đẹp đẽ
phải mô phỏng tự nhiên giới; mà tự nhiên
giới chỉ hiển lộ khi ta không cắt xén nó, không
đóng khung nó trong khái niệm và danh ngôn.
Tuy
nhiên, giáo lư vẫn được chuyên chở bằng danh
ngôn và khái niệm, cho nên giáo lư không thể thuyết minh
được thực tại. Giáo lư dùng danh ngôn và khái
niệm để lay đổ danh ngôn và khái niệm. Ta phải
nhận thức được chủ đích của giáo
lư mà đừng chấp chặt ở giáo lư, bởi v́ "chân
lư thực tại là mặt trăng, giáo lư là ngón tay chỉ
mặt trăng; đừng lầm ngón tay là chính mặt
trăng". V́ dù sao ta cũng nhận thức những
nguyên lư vô thường vô ngă bằng khái niệm và diễn
tả chúng bằng danh ngôn. Mà như vậy, ta đă có những
khái niệm về thực tại. Mà đă là khái niệm
tức là có cắt xén có nhăn hiệu : như thế
thực tại lại cũng thoát khỏi nhận thức
ta. Phải luôn luôn nhớ rằng những khái niệm vô
thường, vô ngă, duyên sinh có nhiệm vụ lay đổ
mọi khái niệm và như thế phải tự lay
đổ cả chính chúng nữa. Khái niệm cũng
như danh ngôn, trong trường hợp này, lay đổ
nhau, hủy hoại nhau và tiêu diệt nhau để
nhường chỗ cho một nhận thức trực giác
đặc biệt, có thể tạm gọi là vô phân
biệt trí hay vô lậu trí chẳng hạn. Đọc
một bộ sách của Tam Luận Tông hay Duy Thức Tông
chẳng hạn ta sẽ nhận thấy rơ ràng điều
đó. Và nếu đạt thấu như thế, ta sẽ
vượt khái niệm y tha khởi và sẽ mầu
nhiệm xúc tiếp thẳng với bản thân linh
động của thực tại, với tính chất viên
thành thực của thực tại. Thực tại là
thực tại, "pháp nhĩ như thị", không có
tính cách biến kế sở chấp cũng không phải
không có tính cách biến kế sở chấp, không có tính cách
y tha khởi cũng không phải không có tính cách y tha khởi
: tính cách nó là viên thành thực. Và để nhận
thức hoàn hảo để cho thực tại đúng là
viên thành thực, ta phải thêm như sau : thực tại không
phải có tính cách viên thành thực cũng không phải không
có tính cách viên thành thực, do đó nó mới hoàn toàn là thành
thực. Đó là chân lư mầu nhiệm mà Kinh Kim
Cương muốn diễn tả. Đó cũng là
điểm cao chót vót của nhận thức luận Phật
giáo.
Những
điểm hết sức thiết yếu mà chúng tôi đă
cố tŕnh bày một cách giản lược như trên, có
thể t́m thấy trong mọi kinh điển căn
bản ở Nam tông cũng như ở Bắc tông, ở
Tiểu thừa cũng như ở Đại thừa.
Những hệ thống Bát nhă Duy thức, Viên giác… có vẻ
h́nh như là đặc biệt của riêng Đại
thừa giáo nhưng kỳ thực chỉ là những khai
triển của giáo lư Nguyên thỉ. Những hệ
thống tư tưởng ấy không nhắm mục
đích nào khác hơn là trao truyền phương pháp đào
luyện nhận thức giác ngộ, mà khởi điểm
là thuyết minh vô thường vô ngă để lay
đổ nhận thức cũ, để cuối cùng tiêu
diệt luôn khái niệm vô thường vô ngă mà đi
đến nhận thức viên giác vô phân biệt. T́m
học ở những kinh điển Nam tông, ta sẽ
nhận thấy sự hiện diện của những
tư tưởng nhân duyên, vô thường, vô ngă, duy
thức, bát nhă và cả viên giác nữa. Thiền học là
một đóa hoa tuyệt vời nở trên nhận
thức luận Phật giáo, tổng hợp
được tinh ba của tất cả hệ thống
giáo lư khác biệt.
Cho
nên, những kinh sách nào những giáo lư nào không chuyên chở
được nhận thức luận duyên sinh và viên giác
của đạo Phật th́ có thể xem như là không
phải của Phật giáo, và ít ra không phải của Phật
giáo chính thống. Giáo lư mênh mông và rất thiên sai vạn
biệt nhưng đồng nhất vị, chính là ư ấy.
Bước
đầu của sự khảo sát thực tại, như
thế, là nhận thức duyên sinh, tức là nhận
thức vô thường, vô ngă. Câu kinh A Hàm sau đây có
thể là đại diện căn bản cho tất
cả các kinh điển về phương diện khai
thị chân lư ấy :
"Thử
hữu tắc bỉ hữu,
Thử
vô tắc bỉ vô,
Thử
sinh tắc bỉ sinh,
Thử
diệt tắc bỉ diệt"
(Cái
này hiện hữu th́ cái kia hiện hữu,
Cái
này không hiện hữu th́ cái kia không hiện hữu,
Cái
này phát sinh th́ cái kia phát sinh,
Cái
này hoại diệt th́ cái kia hoại diệt).
Trên
nhận thức duyên sinh ấy, ta thấy mọi kiến
chấp về thường và ngă tan ră, mọi xây dựng
tri thức lay đổ, mọi cố gắng hệ
thống hóa trở nên vô nghĩa. Thực tại là thực
tại nguyên vẹn linh động không thể cắt xén,
không thể mệnh danh, không thể dán nhăn hiệu.
Những khái niệm sinh, diệt, hữu, vô, khứ, lai,
nội, ngoại đều là những kiến tạo
của tri thức chủ quan sai lạc không thể
được gán cho thực tại, và cả những khái
niệm vô thường, vô ngă giúp ta lay đổ nhận
thức lầm lạc cũ cũng phải đến
phiên bị lay đổ. Và ta thấy :
"Nhất
thiết pháp bất sinh,
Nhất
thiết pháp bất diệt,
Nhược
năng như thị giả,
Chư
Phật thường hiện tiền".
(Mọi hiện tượng
không sinh,
Mọi hiện tượng
không diệt,
Nếu hiểu được
như thế, ta sẽ thấy
(bài kệ
của Thiền sư Việt Nam Điều Ngự Giác
Hoàng, sáng tổ của phái Thiền tông Trúc
Đến
đây, viên thành thực tính của thực tại đă
được hiển lộ, v́ khái niệm danh ngôn đă
đổ vỡ nhường chỗ cho nhận thức
viên giác. Mà
nhận thức được thực tại tức là
thấy được chân tướng của thực tại,
thấy được chư Phật,
thấy được Niết Bàn. Niết
Bàn chẳng có nghĩa ǵ khác hơn là chân tướng
của thực tại. Ta v́ không đạt
đến chân tướng của thực tại, chỉ
có thể vọng chấp được bóng dáng của
thực tại nên không thấy được Niết Bàn
mà chỉ thấy luân hồi sinh tử khổ đau. Ba
pháp ấn của Phật giáo là Vô Thường, Vô Ngă,
Niết Bàn; khi chưa đánh đổ được
nhận thức bằng khái niệm và danh ngôn, ta chỉ
nh́n thấy thực tại qua vọng chấp
thường, ngă. Theo sự hướng dẫn của giáo
lư ta đào luyện nhận thức duyên sinh để
thấy được tính cách vô thường vô ngă của
thực tại, và sau đó khi đă lay đổ luôn được
những khái niệm cuối cùng về vô thường vô
ngă, ta sẽ trực nhận được thực
tại trong tự tính Niết Bàn viên thành thực của
nó. V́ vậy tuy Thường Ngă đă đành là vọng
chấp, nhưng Vô Thường, Vô Ngă cũng c̣n là vọng
chấp. Chỉ có Niết Bàn là viên thành
thực. Tuy nhiên, ta phải thấy rơ rằng vọng
chấp và viên giác là hai khái niệm tương thành
tương lập, cả hai đều bất
tương ly, cả hai là một, cả hai đều
giả lập, hoặc cũng có thể nói rằng cả
hai đều là thực tại. Có sự hiện hữu
của Vọng chấp thực tại, tức là có sự hiện
hữu của Viên giác thực tại. Nói khác hơn,
nếu thế giới vô thường vô ngă hiện
hữu, th́ Niết Bàn cũng hiện hữu. Như thế, sinh tử với Niết Bàn là
một, hoặc "Niết Bàn sinh tử thị không
hoa" (cả hai thứ Niết Bàn và sinh tử
đều là những hoa đốm trong hư không). Đó
là chân lư mà giáo lư viên giác chủ ư diễn tả trong các kinh
điển của ḿnh,
Câu hỏi :
"Có Niết Bàn không ?" và "Niết Bàn là ǵ ?"
như thế, trở thành không quan trọng, và đôi khi
ngớ ngẩn nữa.
Kinh điển
"Phải có thực thể
không sinh không diệt; bởi v́ nếu không có thực
thể không sinh không diệt ấy th́ do đâu mà các hiện
tượng có sinh có diệt ?" - (Kinh A Hàm).
Như vậy ta nhận
thấy dù ở Bắc tông hay Nam tông, giáo lư Phật giáo
đều chú trọng đặc biệt đến
vấn đề khảo sát thực tại, đều
trao truyền những phương pháp hướng dẫn
diệt trừ mê vọng, giúp con người thoát bỏ
nhận thức nông cạn và sai lạc để
đạt đến nhận thức giác ngộ viên minh. Nhận
thức càng chân xác th́ hành động càng chân xác; trên quá tŕnh
nhận thức và hành động (quá tŕnh tri, hành) con
người diệt trừ dần dần đau khổ và
thất bại, kiến tạo cho ḿnh một nếp
sống phù hợp chân lư, an lạc, hạnh phúc và sáng
tỏ.
Cứu cánh của đạo
Phật là trừ diệt khổ đau và kiến tạo
an lạc, mà nguyên nhân của khổ đau là vô minh, tức
là sự xa cách thực tại, nhận lầm thực
tại, cắt xén và biến h́nh thực tại. Không
nhận thức được thực tại th́ cố
nhiên sẽ hành động phản chống lại thực
tại, với đường lối vận hành của
thực tại. Mà hễ phản chống
lại thực tại là mua chuốc lấy khổ đau.
Khi ta dại dột đưa
tay vào lửa, ta bị bỏng tay :
thế là đau khổ v́ không biết rằng lửa nóng. Khi ta hành động trái chống với nguyên lư vô
thường, vô ngă và duyên sinh của thực tại, ta
cũng mua chuốc lấy những thất bại khổ
đau. V́ thế để đạt tới một
cuộc sống ḥa đồng với thực tại, ta
phải nhận biết bản thân của thực tại
và như thế, phải đạt đến nhận thức
giác ngộ, gọi là Tue?hay Bát nhă
(prajna).
Nhưng
nhận thức Bát nhă không thể trong một sớm
một chiều mà thực hiện được. Để
đạt đến nhận thức Bát nhă tṛn vẹn ta
phải thực hiện từ từ nhận thức
ấy. Mà thực hiện thế nào ?
Đó là tất cả vấn đề mà đạo
Phật nhắm đến, v́ đạo Phật là một
đạo lư hướng dẫn con người trên
bước đường thực hiện nhận
thức ây.
Không phải do học tập
trong giáo điển mà con người có thể có ngay
nhận thức ấy. Phải trải qua nhiều công phu
tu luyện thực tập, con người mới có
thể làm sáng tỏ nó dần dần nơi bản thân ḿnh.
Sự học tập trong kinh điển
chỉ mới đem ta tới một vài ư niệm nhận
thức. Phải thể hiện những ư niệm
ấy bằng áp dụng, bằng thiền quán, bằng
chính niệm cho động tác, tâm ư và ngôn ngữ phản
chiếu được một phần nào những
nhận thức kia. Mà khi những
thực tập ấy đem lại kết quả
đẹp, th́ khả năng nhận thức càng trở
nên sắc bén. Đó là sự hỗ
tương ảnh hưởng giữa hai phần tri và
hành; và tri chỉ đi tới cứu cánh khi hành đi
tới cứu cánh. Như vậy, một cái tri toàn
vẹn có nghĩa là một cái hành toàn vẹn. Ở đây ta thấy rơ tri hành quả là hợp
nhất.
Tri hướng dẫn Hành, và
Hành làm sáng tỏ thêm cho Tri. (Để hiểu thêm về
vấn đề nầy, xin đọc cuốn ĐỂ
HIỂU ĐẠO PHẬT của PHƯƠNG BỐI -
trang 23 đến 28 - do Phật Học Viện Trung
phần xuất bản, 1959). V́ vậy, những áp dụng
và thực tập rất cần thiết cho người
hành giả muốn tự đào luyện cho ḿnh một
khả năng nhận thức sâu rộng.
Nhưng áp dụng ǵ và thực
tập ǵ ? Áp dụng và
thực tập những ư niệm chân xác hơn về
thực tại (xin nhớ là chân xác hơn) mà ta học
từ đức Phật. Ví dụ nguyên lư duyên sinh, vô
thường, vô ngă. Đó là những
nguyên lư mà v́ không có nhận thức sâu sắc và
thường xuyên ta đă vi phạm trong khi ta hành
động, tức là trong khi chúng ta sống. Những
nguyên lư ấy, đôi khi lư trí của ta cũng trực
nhận được, nhưng chúng không ngự trị
trong ư thức ta một cách trường cửu mà chỉ
thoáng bay qua. Lư do là v́ trong ta những ư dục và sân hận
thường lui tới xâm chiếm. Do đó chúng lấn áp
và trùm chiếm nhận thức không cho sáng tỏ.
Như thế, vấn đề đặt ra cho chúng ta là:
1. Làm sao nhận thức duyên sinh
vô thường và vô ngă có thể thường xuyên ngự
trị trong ta.
2. Làm sao cho dục vọng và sân
hận đừng vây chiếm nhận thức ta.
Thực
hiện được hai điều ấy, ta sẽ nắm
vững được ta và sẽ hành động đúng
với nguyên lư duyên sinh, vô thường, vô ngă; và sẽ không
thêm một nguyên nhân đau khổ nào nữa. Để thực hiện hai
điều ấy, đạo Phật đề nghị :
I.- ĐỊNH TÂM : Mỗi ngày phải có
những giờ giấc thực tập, tập trung tư
tưởng về một đối tượng, đ́nh chỉ
những loạn tưởng, tiêu diệt những vọng
tưởng để phát triển nhận thức bát nhă. Đây là cả một kỹ thuật tu luyện.
Ta phải học tập và thực hành dưới sự
hướng dẫn của một thiền sư hay
một người đă đi trước ta hơi xa. Tập trung tư tưởng về một
đối tượng (như nguyên lư vô thường, vô
ngă) để duy tŕ đối tượng ấy trong ta một
thời gian lâu dài, để nó thâm nhập và huân tập
(xông ướp, danh từ duy thức học Phật giáo)
mạnh mẽ vào nhận thức ta. Cũng có
nghĩa là để đối tượng ấy bừng
sáng và tỏa chiếu trong nhận thức ta. Ư thức ta,
khi tập trung vào một điểm đối tượng,
sẽ trở thành sức mạnh có thể làm bừng sáng
đối tượng ấy - như một thấu kính
hội tụ (lentille convergente) có thể, dưới ánh
sáng mặt trời, đốt cháy một bông cỏ. Đ́nh
chỉ những loạn tưởng, là để chúng
đừng phát sinh, tác động và ảnh hưởng
trên bản thân và hành động ta một cách tự do và uy
quyền như trước. Sức mạnh do ư lực
đem lại, với bối cảnh tiềm thức và vô
thức đồng huân, đồng biến, sẽ là
một lưỡi gươm sắc bén chặt
đứt dần vọng tưởng đang phát khởi
và đă phát khởi hiện c̣n gốc rễ (chủng
tử) trong vô thức (Alaya, theo danh từ duy thức học).
Điều nầy cần được
học hỏi trong giáo lư Duy thức.
II.- TR̀ GIỚI : Nhưng làm thế nào để thực hiện
định tâm ? Một cuộc sống buông thả, không
kỷ cương, không khuôn phép là điều kiện cho
vọng tưởng và ư dục lộng hành. Bởi
v́ định tâm không thể thực hiện
được bằng một vài giờ thiền quán và
một vài giờ thiền quán mỗi ngày chưa chắc
đối trị lại được với suốt
ngày vọng động buông thả. Cho nên khi đi,
đứng, nằm, ngồi, hoạt động, sinh
hoạt, người hành giả cũng phải tập
giữ chính niệm nghĩa là chuyên nhớ đến nguyên
lư hành động. Mà muốn dễ giữ
chính niệm, muốn dễ thực hiện định
tâm, ta phải khép ḿnh trong một nếp sống thuận
lợi cho sự phát triển thiện niệm và để
cho tà niệm khó lộng hành. Nếp
sống ấy là một nếp sống được quy
định bởi những giới luật. Ta
thường làm những ǵ ta nghĩ và ta thường
nghĩ những ǵ ta làm. Điều ấy giản dị
quá, ai cũng nhận thấy. V́ vậy, người hành
giả không làm những ǵ do ư dục và sân hận ra
lệnh, để không nghĩ đến những ǵ
có dục tính và sân tính. Hành giả lại không nghĩ đến
những ǵ có ư dục tính và sân tính để không làm những
ǵ do dục ư và sân ư ra lệnh. Hành giả càng
tiến tới th́ si tính của nhận thức càng bị
tiêu hoại và nhường chỗ cho tuệ tính của bát
nhă. Tham dục sân hận và si độn
càng tiêu hoại th́ khả năng giác ngộ càng phát
triển. Một ngày kia, hành giả
đi đến sự thực hiện toàn vẹn tuệ
tính của nhận thức ḿnh,
V́ sự sống không cho phép ta
có nhiều điều kiện để tự thực
hiện một cuộc thoát xác mau chóng như ư ta muốn - nghĩa
là làm thiền sư - ta hăy cố gắng xếp
đặt một chương tŕnh sống hợp lư
hơn, có nhiều điều kiện hơn, để
thực hiện nhận thức giác ngộ. Ta có thể
học tập, thiền quán và áp dụng đạo
Phật trong bất cứ một cuộc sống vất
vả và bận rộn nào. Nhưng thực ra, vất
vả và bận rộn nhiều hay ít cũng tùy ở ta.
Chúng
ta thường nghĩ rằng tôn giáo nào cũng dạy
bỏ ác làm lành và v́ vậy tôn giáo nào cũng đáng quư
trọng. Điều đó thật đúng. Nhưng
điều đó không quan hệ mấy. Quan hệ là ở
chỗ bỏ những ác nào, làm những lành nào, những ǵ
là ác, những ǵ là lành, và lấy tiêu chuẩn nào để đo
lường mà biết thế nào là ác, thế nào là lành.
Vấn
đề tiêu chuẩn thiện ác là một vấn
đề trọng đại của luân lư học.
Nhưng luân lư bao giờ cũng được căn
cứ trên một nền tảng nhận thức có hệ
thống về vũ trụ, về thực tại và
về con người. Nhận thức ta là một nhận
thức duy vật chẳng hạn, th́ luân lư ta là một
luân lư duy vật. Nhận thức ta là một nhận
thức duy thần th́ luân lư ta sẽ là một luân lư duy thần.
Và lẽ tất nhiên hễ nhận thức căn bản
đổi thay th́ quan niệm luân lư đổi thay. Luân lư
không phải những bài học hay những khuôn mẫu
đúc sẵn để cho mọi người khép theo. Luân
lư phải là phương châm và pháp thức hành động
của con người hợp với hoàn cảnh, tâm lư và
hạnh phúc chân thật con người. Lịch sử
đă chứng tỏ bao nhiêu cuộc đổi thay của
sinh hoạt xă hội của nhận thức trí tuệ và của
luân lư con người. Luân lư phải chuyển biến
để thích ứng với hoàn cảnh hiện tại
của xă hội, của con người. Quan niệm
xưa "quân sử thần tử, thần bất tử
bất trung" chẳng hạn, đă được tôn
sùng như một chân lư và cũng đă đóng góp không ít cho
nền trị an của những đế quốc nông
nghiệp rộng răi. Nhưng ngày nay xă hội đă đổi
khác, những nhận thức của con người cũng
đổi khác cho nên, các quan niệm luân lư như thế
đă trở thành không hợp thời và lại trái
chống với hạnh phúc con người nữa. Cho nên,
là một Phật tử chân chính không có nghĩa là phải
bắt chước y hệt khuôn mẫu hành động
của một người Phật tử sống ở
một xă hội khác biệt cách đây hai ba ngàn năm, dù
người Phật tử ấy là người Phật
tử chân chính nhất. Điều cốt yếu t́m cho ra
những nguyên lư này đă làm căn bản cho hành
động của người Phật tử ấy, và xây
dựng sinh hoạt ư chí t́nh cảm hoạt động
của ḿnh trên những nguyên lư căn bản kia. Theo
đúng nguyên tắc trên, ta thấy luân lư (tức là
phương pháp) của ta phải :
1.-
Phù hợp với những nguyên lư căn bản của
đạo Phật đă làm nền tảng cho sinh hoạt
muôn mầu muôn sắc của hai-ngàn-năm-trăm-năm
giáo sử.
2.-
Phù hợp với xă hội ta, lịch sử ta và những
điều kiện tâm lư sinh lư của cá nhân ta.
Điều
thứ nhất là khế lư, điều thứ hai là khế
cơ. Hễ cái ǵ mà khế lư và khế cơ th́
được gọi là Phật Pháp. Như vậy trong khi
thực hành Phật Pháp, ta có ư thức rơ rệt và linh động
về những phương pháp và mục đích của
công cuộc thực hiện ấy, chứ ta không bắt
chước một cách vô ư thức khuôn khổ hành
động của một kẻ khác mà điều kiện
xă hội, lịch sử, điều kiện tâm lư và
sinh lư chẳng giống ǵ của ta.
Vậy
trước hết, ta phải t́m hiểu những nguyên lư
căn bản của đạo Phật và tiếp đó là
t́m cách ứng dụng những nguyên lư ấy trong những
điều kiện đặc biệt của chính ta.
Trước
hết ta phải t́m đến những TIÊU CHUẨN
THIỆN ÁC để có thể phân biệt được
những ǵ là thiện phải làm và những ǵ là ác phải
tránh. Ta đừng nên hiểu chữ thiện theo
nghĩa những công việc xă hội từ thiện mà
phải hiểu chữ thiện theo nghĩa nên làm. Ví
dụ khi ta cho một người khát uống nước
th́ đó là một việc thiện. Nhưng nếu ta cho
một bệnh nhân vừa mới giải phẫu ruột
uống nước th́ đó là một việc ác, dầu ta
không cố tâm giết người đó. Lại như ta
cho một người bệnh uống sâm, có người
uống sâm th́ mạnh khỏe thêm lên, có người
(như người vừa bị cảm thương hàn)
uống sâm th́ bệnh nặng đùng đùng kéo
đến. Vậy uống sâm là thiện hay ác,
là nên làm hay không nên làm, điều đó c̣n tùy
ở hoàn cảnh, ở trường hợp và ở
điều kiện. Vậy điều quan yếu không
phải là kê khái trên một tờ giấy những ǵ
thiện mà mọi người phải làm bất cứ
ở đâu, lúc nào; trái lại, là t́m cho ra những tiêu
chuẩn để ứng dụng trong mọi trường
hợp và hoàn cảnh khác nhau. Theo đạo Phật, ta có
thể có những tiêu chuẩn sau, những tiêu chuẩn này
bổ trợ cho nhau mà không thể tách rời nhau
được.
1.- Tiểu chuẩn khổ vui. Những ǵ gây
khổ đau cho ta và cho người chung quanh ta trong
hiện tại và trong tương lai đều
được gọi là ác. Ngược lại ta gọi
là thiện những ǵ gây cho ta tâm trạng an lạc thanh
tịnh tự chủ và thanh thoát. Ví dụ tôi có bệnh
bón. Nếu tôi uống vào buổi sáng một cốc
nước lạnh trong khi bụng c̣n trống, tôi thấy
điều đó giúp cho tôi trị được bệnh
bón, tôi hết nhức đầu cáu kỉnh. Điều
đó là một điều thiện (đối với tôi
trong những điều kiện của tôi) nhưng
nếu tôi uống thật nhiều nước trong
khi tôi ăn cơm chẳng hạn, nhất là rượu
và các thứ nước ngọt ướp đá lạnh
tôi thấy bệnh bón của tôi càng ngày càng khó chịu thêm
lên. Vậy uống đây là một điều ác
(đối với tôi, trong những điều kiện
của tôi). Ngàn vạn chuyện hằng ngày điều có
thể dùng tiêu chuẩn khổ vui này để đo
lường.
2.- Tiêu chuẩn mê ngộ.
Nhưng tiêu chuẩn khổ vui cần được
bổ túc bằng tiêu chuẩn mê ngộ. Mê là sai lầm,
ngộ là hợp lư, mê là trái với nhận thức vô
thường, vô ngă, nhân duyên và niết bàn. Ngộ là đúng
với nhận thức ấy. Trở lại ví dụ
bệnh bón. Tôi đang uống rượu và tôi thấy
uống rượu là vui, nghĩa là hạnh phúc. Mà cái ǵ làm
cho ta vui, làm cho ta có hạnh phúc là nên làm, là thiện,
suy xét theo tiêu chuẩn khổ vui. Đó là trường
hợp tiêu chuẩn khổ vui không được bổ
túc bằng tiêu chuẩn mê ngộ. Nếu áp dụng tiêu
chuẩn mê ngộ ta sẽ thấy cái vui của giờ phút
uống rượu không bù được cái khổ của
bệnh bón kéo dài, của thần kinh suy nhược,
của những tan vỡ trong gia đ́nh do sự cáu
kỉnh gây ra bởi say sưa, bởi bệnh uất bón.
Những ǵ trái ngược với suy lư, với nhận
thức sáng suốt về vô thường, vô ngă, duyên sinh
niết bàn đều được xem là ác, v́ vậy tôi
không được uống rượu, dù rượu có
gây khoái cảm cho tôi trong vài giờ say túy lúy.
3.- Tiêu chuẩn lợi hại.
Tiêu chuẩn này là một tiêu chuẩn phối hợp hai
tiêu chuẩn trước. Tôi đang nhắm tới sự
thực hiện sức khỏe tôi, trí tuệ tôi, sự an
lạc của bản thân tôi, của gia đ́nh tôi, và xa
hơn nữa, tôi đang nhắm tới sự thực hiện
diệt mê vọng để được giác ngộ
giải thoát. Vậy những ǵ đóng góp được
vào sự thực hiện những mục tiêu ấy -
tức là hạnh phúc của tôi, của chúng tôi, nói rộng
ra là của tất cả chúng ta - đều
được coi là lợi, và ngược lại là
hại. Người xưa đă tỏ ư coi thường
chữ lợi "Hà tất viết lợi ?", nhưng
chữ lợi đây không có ǵ đáng bị coi
thường cả. Lợi đây là lợi ích chân chính
của bản thân, của xă hội, của chúng sinh - cái
lợi Thường, Lạc, Ngă, Tịnh, cái lợi Chánh
giác, Niết bàn mà mọi Phật tử đang nhắm
đến thực hiện. Ta không ưa chữ lợi v́
có lẽ nội dung của chữ ấy (theo nghĩa
phổ thông đang dùng) bao hàm tư lợi, tà lợi
dục vọng. Những ǵ phản lại sự thực
hiện những mục tiêu trên đều gọi là
hại.
Ở
đây tôi không muốn đi sâu vào chi tiết lắm,
chỉ xin giải bày những điều đại
cương. Sau khi ta đă có những tiêu chuẩn (như
người đi biển sẵn có bản đồ,
địa bàn v.v.) ta cần xét nội dung của một
hành động một nghiệp nói theo danh từ
chuyên môn của ta; có thể là thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ư nghiệp, để đoán định giá
trị của hành động ấy theo những tiêu
chuẩn trên.
Trước
hết là động cơ tâm lư của hành động,
được xem là bản chất của hành
động. Thứ đến là phương tiện, cách
thức biểu hiện động cơ tâm lư ấy. Và
cuối cùng là kết quả xảy tới là hành
động ấy. Đó là 3 phương diện: căn
bản, phương tiện, và thành dĩ. Ví dụ nó
giết người. Ư niệm giết người là
căn bản. Dao súng, gậy, hay là lời vu cáo chẳng
hạn, là phương tiện. Người kia chết là
thành dĩ. Nhưng có khi căn bản nặng, nhưng
phương tiện và thành dĩ nhẹ (muốn giết
nhưng tay yếu và chỉ làm cho người kia bị
thương nhẹ). Có khi căn bản nặng,
phương tiện nặng, nhưng thành dĩ nhẹ
(muốn giết, có súng nhưng bắn sai) có khi căn
bản nhẹ nhưng phương tiện nặng và thành
dĩ nặng (chỉ có ư dọa không muốn giết
nhưng lỡ tay bóp c̣, người kia chết). Cứ
như thế, ta suy luận đoán định giá trị
của một hành động và tạo nên luân lư cho ta và có thể
cho một số người cùng trong những điều
kiện như ta.
4.- Căn cơ đặc
biệt. Sau khi nắm được
tiêu chuẩn, ta phải nghiên cứu căn cơ của ta,
của xă hội ta, lịch sử ta, tâm lư, sinh lư ta.
Điều này cũng thật quan trọng. V́ trị
bệnh phải biết bệnh chứ không thể ỷ
có thuốc hay mà cho bệnh nhân uống một cách mù quáng.
Ta trở lại thí dụ cho bệnh nhân uống sâm Cao ly :
có khi ta làm cho bệnh nhân thêm nặng.
Trong
Phật giáo nghe nói đến tám vạn bốn ngàn Pháp môn
tức là có rất nhiều cửa pháp để đi vào
Phật địa. Tiền nhân đă ghi lại kinh
nghiệm và phương pháp trong sách vở, đă truyền
lại kinh nghiệm và phương pháp cho hậu thế.
Nhưng ḍng kinh nghiệm biến chuyển hoài hoài, v́
bản chất của ḍng kinh nghiệm là cơ cấu xă
hội, lịch sử, tâm lư, sinh lư luôn luôn biến
chuyển. Có những Pháp môn ta c̣n dùng được, có
những Pháp môn phải sửa đổi lại cho
hợp với những điều mới, có những Pháp
môn không dùng được nữa. Ta phải t́m hiểu,
thí nghiệm, áp dụng và t́m lấy những phương
pháp của chính ta, phù hợp cho chính ta. Ví dụ khi tôi nói
đến phương pháp điều tức (điều
ḥa và chế ngự hơi thở) để giúp
người tu nhập chỉ quán, tôi không nói đến
một phương pháp có thể áp dụng cho tất
cả mọi người. V́ cơ thể sinh lư, tâm lư
mỗi người mỗi khác, tôi không thể bắt
chước làm giống hệt người kia. Phải
tự hiểu t́nh trạng vốn liếng của chính ḿnh
trước. Và v́ vậy, bước đầu của
người Phật tử và kiểm điểm vốn
liếng tâm lư, sinh lư là hoàn cảnh của ḿnh để
định cho ḿnh những phương pháp khế hợp.
Giáo pháp quan trọng nhất là Bát chánh đạo. Nhưng
ở đây, ta chỉ được nghe chánh kiến,
chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh ngữ, v.v… mà không
thấy thống kê những ǵ là chánh kiến, chánh tư
duy, chánh nghiệp, chánh ngữ. Bởi v́ Bát chánh đạo
là tiêu chuẩn hành động mà không phải là giáo
điều cố định. Đạo Phật cao siêu và
bất diệt một phần là nhờ ở đấy.
Trong
những chương trên, chúng tôi đă cố tŕnh bày
một cách giản lược những nét chính về
bản chất và phương pháp của đạo
Phật - như những khám phá cần thiết tối
thiểu của một cá nhân về nền đạo lư
ấy cho chính bản thân ḿnh. Trong chương cuối này
chúng tôi muốn nói về sự cần thiết của công
việc hiện đại hóa đạo Phật
đứng trên lập trường văn hóa và xă hội.
Thế
kỷ của chúng ta là thế kỷ mà trong đó mọi
giá trị tinh thần cổ điển đều bị
ngờ vực, đều bị đem ra khảo sát lại.
Tâm trạng của người trí thức thời
đại là một tâm trạng nghi nan, nghi nan tất
cả những ǵ được phơi bày dưới
những h́nh thái tuyên truyền tân tiến nhất, tài t́nh
nhất, và có vẻ như là hay ho và hợp thời
nhất. Sự nghi nan ấy bao trùm tất cả những
giá trị tinh thần cổ điển tự ngàn xưa
được coi là nề nếp bất di bất dịch
của đạo làm người. Nhân loại hôm nay đ̣i
làm một cuộc "phán xét cuối cùng" để
củ soát và định đoạt lại mọi giá
trị tinh thần và văn hóa, cận kim cũng như
cổ điển.
Bởi
v́ những h́nh thái sinh hoạt của các tinh thần cũ
đă bị nứt rạn. Nứt rạn v́ không nắm
được bản chất thiết yếu của
văn hóa mà chỉ khăng khăng nắm giữ những
h́nh thái khô cứng của xă hội cũ, trong khi đó
những cơ cấu sinh hoạt của xă hội ngày nay
đă theo luật vô thường mà biến thiên đến
tận gốc. Kẹt trong khuôn khổ h́nh thức, bản
chất văn hóa không được thể hiện và do
đó h́nh thức phải đi đến khô cứng và
nứt rạn. Phật giáo ở các nước Á châu
cũng đang lâm vào t́nh trạng đó.
Trong
khúc quanh quan trọng này của lịch sử, những ḍng
sinh hoạt văn hóa nào muốn sống c̣n sau cơn băo
tố nhân loại cần phải thực hiện một
sự thoát xác, để trút bỏ gông cùm h́nh thức
để tự biến thành trẻ trung hùng mạnh,
tạo dựng được một sức sống
mới mà gốc rễ bắt bén được vào tâm
hồn và hoài vọng của những con người
đại diện cho xă hội mới. Văn hóa Khổng
Mạnh chẳng hạn, với giáo lư trung quân ái quốc
xưa cũ, với những quan niệm luân lư quá thời,
đă thiếu điều kiện để tự
thực hiện một cuộc thoát xác v́ bản chất
văn hóa đă khô cứng theo với h́nh thái sinh hoạt.
Những ḍng văn hóa nào bắt nguồn từ những
khởi điểm nhận thức mê tín, phản khoa
học, ngày nay cũng không c̣n điều kiện
để thực hiện sự thoát xác nữa. Chỉ có
những ḍng sinh hoạt văn hóa nào bắt nguồn
từ những nhận thức chân xác về thực tại
và c̣n hàm chứa một nội dung để có thể
tiếp tục phụng sự con người th́ mới có
những triển vọng thoát xác mà thôi. Nhưng nếu
những ḍng sinh hoạt ấy cứ tiếp tục khô héo
và nghèo nàn dần đi trong những chiếc vỏ
cứng thiếu sinh khí th́ chúng cũng phải chịu chung
số phận biến diệt và sẽ không c̣n có mặt
trong sinh hoạt xă hội ngày mai nữa. Đạo
Phật, như chúng ta đă biết, bắt nguồn
từ những nhận thức chân xác và tiến bộ
nhất của nhân loại và bao hàm một nội dung
văn hóa vô cùng phong phú và hàm xúc. Đạo Phật có
rất nhiều điều kiện để thực
hiện một cuộc thoát xác trong ngày hôm nay cũng như
đă thực hiện được một cách viên măn
những cuộc thoát xác trong 2500 năm lịch sử
đă qua. Nếu không có những cuộc thoát xác của
Đại chúng Bộ, của Long Thọ và của Vô
Trước chẳng hạn, Phật giáo đă không
biến thành một sức mạnh tràn lan khắp lục
địa Á châu như ta đă thấy. Mỗi lần xă
hội biến thiên với những cơ cấu sinh
hoạt của nó, là mỗi lần đạo Phật
phải chuyển ḿnh vươn tới những h́nh thái
sinh hoạt mới để thực hiện những nguyên
lư linh động của ḿnh. Sau mỗi lần lột xác
như thế, đạo Phật biến thành trẻ trung
và lấy ngay lại được phong độ và khí
lực của thời nguyên thỉ.
Cho
nên những con người tự nhận có trách nhiệm
về sự sinh tồn của đạo Phật,
phải ư thức được vấn đề một
cách nghiêm trọng. Đừng vô t́nh hay hữu ư vu cáo cho
đạo Phật, biến đạo Phật thành một
phương tiện. Đừng dán sau lưng đức
Phật những nhăn hiệu để thỏa măn nhu
cầu, thị hiếu và thị dục của ḿnh.
Đừng đóng khung lại ngàn đời những
nguyên lư linh động không bao giờ chịu đựng
được khuôn kho? Phải hiểu thế nào là
bất biến và tùy duyên. Đừng tự giam ḿnh trong
thế giới chủ quan, đừng bưng bít nhận thức.
Phải hiểu thế nào là cuộc đời hôm nay, con
người hôm nay, với những nhu cầu trí tuệ,
t́nh cảm, xă hội của nó. Phải cảm thông
những nỗi niềm đau khổ thắc mắc
của nó, phải hiểu thấu hoàn cảnh và
điều kiện sinh hoạt của nó để mà
phụng sự nó. V́ đạo Phật ra đời là
để phụng sự con người. Rời con
người, đạo Phật mất sứ mạng.
Sống
trong xă hội, cảm thông những khổ đau của xă
hội, ta mới thấy sáng tỏ nơi trí tuệ ta
những nguyên lư và phương pháp mà đức Phật
dạy. Phải sống ta mới hiểu. Giáo lư
và cuộc đời cũng ví như hai tảng đá,
chạm nhau th́ phát sinh ra lửa : ngọn lửa thiêng
đó chính là con đường, là nguyên lư linh động.
Đem giáo lư sống trong cuộc đời ta mới
trực nhận được những nguyên lư linh
động ấy. Giáo lư đặt xa cuộc đời
th́ chỉ là giáo lư mà không phải là sự thực hiện
đạo Phật. Mà đạo Phật không phải
chỉ là giáo lư : đạo Phật là sự thực
hiện giáo lư, là kết quả của sự thực
hiện giáo lư trong bản thân cuộc đời.
Có
những giai đoạn mà trong đó đạo Phật
gần như vắng mặt trong cuộc đời.
Ở mọi cơ cấu sinh hoạt của xă hội như
giáo dục, kinh tế, văn học, nghệ thuật…
đạo Phật đă vắng mặt. Đạo
Phật đă lùi về một góc riêng biệt của xă
hội, một cái góc khác ấm cúng và riêng tư cho một
số các vị tăng sĩ và một số quần chúng
đệ tử chỉ chuyên lo cầu nguyện cúng tế.
Phận sự gần nhất là giáo dục và vun bón
niềm tin cho một xă hội thác loạn, đạo
Phật (của hầu hết các nước Đông Nam Á)
cũng đă hầu như buông thả, bất lực. Bởi
v́ đạo Phật đă tự làm nghèo ḿnh về
nội dung Phật chất. Đạo Phật hầu như
không c̣n muốn hiện diện trong ḷng cuộc
đời nữa mà chỉ muốn đứng bên
cạnh cuộc đời. Trong những giai
đoạn như thế, người Phật tử có
nhiệt tâm thường có mặc cảm rằng
đạo Phật bị xă hội bỏ quên : mặc
cảm đó thôi thúc họ làm một cái ǵ để
chứng minh sự có mặt của đạo Phật
trong xă hội. Họ lo tổ chức những cuộc
lễ thật lớn và huy động quần chúng tham
dự đông đảo. Nhưng những tổ chức
rầm rộ ấy chỉ có tác dụng nhất thời
và giây phút ấy càng rầm rộ bao nhiêu th́ những giây
phút kế tiếp lại càng ảm đạm bấy
nhiêu. Thật giống như người đi gom hết
giấy vụn thành một đống to để
đốt lên cho sáng, đống giấy chỉ cháy bùng lên
một lát rồi lưu lại tro tàn nguội lạnh.
Đạo Phật không nhờ thế mà lấy lại sinh
khí.
Bằng
những cố gắng khác, người Phật tử
đă muốn tô điểm cho tổ chức Phật giáo
một ít h́nh thái tân thời như kư nhi viện, bệnh
viện, trường học, - mô phỏng h́nh thức
tổ chức của một vài tông giáo Tây phương.
Những cố gắng ấy được thúc
đẩy do mặc cảm nói trên th́ nhiều, do ư thức
chuyển hiện đạo Phật vào thời đại
th́ ít. Đạo Phật không thể biểu lộ được
sinh khí ḿnh bằng những hoạt động xă hội
căn cứ trên ư niệm tự ái tôn giáo. Không thoát xác
được, đạo Phật mang những thứ
trang sức ấy vào như mang những thứ trang
sức không phù hợp với chính ḿnh, và do đó lúng túng -
cái lúng túng của một bà cụ già mặc áo tân thời.
Kỳ
thực, vấn đề đặt ra cho đạo Phật
là vấn đề hiện đại hóa (actualisation) mà
không phải là vấn đề tân thời hóa (modernisation).
Hiện đại hóa có nghĩa là một sự thoát xác,
một sự cởi bỏ xiềng xích h́nh thức
để giải phóng cho nội dung Phật chất
(nội dung bản chất Phật giáo). Phải sống
trong cuộc đời với một ư thức hệ sáng
tỏ, đáp ứng được với xă hội,
đưa đạo Phật vào ngự trong ḷng
người, đánh tan mọi nghi nan, thắc mắc,
khổ đau, vượt được những tà
thuyết và thái độ hiện đang dày xéo và hăm
dọa tự do an lạc của con người. Phải
dựng nên cho đạo Phật một h́nh thái sinh
hoạt mới, hợp lư, làm hiển lộ
được Phật chất và nắm giữ
được những truyền thống tốt
đẹp của đạo Phật trong lịch sử.