Thích Nhất Hạnh
Đường
Xưa Mây Trắng
chương ba mươi tám
Ôi! Hạnh Phúc!
Bụt đă
rời khỏi vương quốc Sakya nhưng
người vẫn c̣n hoằng hóa ở miền Bắc
vương quốc Kosala. Người và khoảng một
trăm hai mươi vị khất sĩ đang cư trú
ở một công viên gần thành phố Anuplya của
bộ tộc Malla.
Đại đức Sariputta vẫn c̣n ở bên
người. Kaludayi, Nanda và chú tiểu Rahula cũng ở
bên người.
Trong thời gian Bụt ở ngoại thành Kapilavatthu,
nhiều thanh niên trong hoàng tộc đă đến xin
xuất gia với người, phần lớn là xuất
thân từ những gia đ́nh có từ ba người con
trai trở lên. Sau khi Bụt rời Kapilavatthu
được nửa tháng, có hai anh em ruột thuộc
gịng họ Sakya cũng muốn đi xuất gia. Nhà của
họ giàu lắm. Gia đ́nh có tới ba cơ sở cư
trú, một cho mùa Hè, một cho mùa Mưa, và một cho mùa
Đông. Hai anh em tên là Mahanama và Anuruddha. Thấy nhiều
bạn hữu của ḿnh trong hoàng gia đă đi xuất
gia với Bụt, Mahanama cũng muốn được
đi xuất gia. Mahanama nghĩ trong gia đ́nh có hai
người con trai th́ nên đi xuất gia một
người thôi, chàng nhường quyền xuất gia cho
em. Anuruddha đi t́m mẹ để xin phép. Bà mẹ nói.
- Mẹ chỉ có hai con là niềm vui của mẹ thôi.
Nếu một đứa trong các con xuất gia th́ mẹ
buồn lắm.
Anuruddha thưa với mẹ là đă có nhiều thanh niên
trong hoàng tộc xuất gia, và nếp sống xuất gia
sẽ đem lại lợi lạc không phải chỉ cho
người xuất gia mà cho cả gia đ́nh và xă hội.
Chàng đă được nghe Bụt giảng tại tu
viện Nigrodha nhiều lần nên chàng giảng thuyết
về đạo pháp rất hay. Cuối cùng bà mẹ nói:
- Nếu bạn của con là Baddhiya mà xuất gia, th́ mẹ
cũng cho con đi xuất gia.
Bà nói vậy v́ bà nghĩ là Baddhiya chẳng bao giờ
xuất gia đâu. Baddhiya là người trong hoàng gia, và chàng
có chức vị rất cao, quyền hành và danh vọng
rất lớn, khó có thể bỏ được tất
cả để mà đi tu.
Anuruddh nghe mẹ nói liền t́m tới Baddhiya. Baddhiya làm
trấn thủ các tỉnh miền Bắc vương
quốc. Dưới quyền chàng có nhiều đội
binh. Dinh thự của chàng có lính gác bốn phía. Kẻ
hầu người hạ tấp nập. Baddhiya tiếp
Anuruddha như một thượng khách. Anuruddha bảo
bạn:
- Tôi muốn đi xuất gia theo học với Bụt,
nhưng tôi không xuất gia được, đó là tại
v́ anh.
Baddhiya cười:
- Tại sao v́ tôi mà anh không đi xuất gia
được? Tôi cấm anh xuất gia hồi nào? Tôi
sẽ làm đủ mọi cách để anh
được xuất gia.
Anuruddha kể lại đầu đuôi câu chuyện,
rồi chàng nói:
- Anh vừa hứa với tôi là anh sẽ làm đủ
mọi cách để tôi có thể đi xuất gia, mà cách
duy nhất là anh cùng đi xuất gia với tôi.
Baddhiya thấy ḿnh kẹt quá, không phải là chàng không hâm
mộ Bụt và đạo lư tỉnh thức. Chàng cũng
đă có ư định sau này sẽ đi xuất gia,
nhưng không phải bây giờ. Chàng nói:
- Bảy năm nữa tôi sẽ đi xuất gia. Anh
cứ đợi tôi.
- Bảy năm nữa th́ lâu quá. Biết tôi có c̣n sống
đến lúc ấy hay không?
Baddhiya cười:
- Sao anh bi quan quá như vậy? Nhưng thôi, nếu anh nóng
ḷng xuất gia th́ anh đợi ba năm nữa vậy.
- Ba năm cũng c̣n lâu quá. Anuruddha nói:
- Thôi th́ bảy tháng. Tôi c̣n phải sắp đặt công
việc nhà cửa và trao trả quyền hành.
- Đă xuất gia th́ cần ǵ phải sắp đặt
lâu như thế. Xuất gia là từ bỏ hết
để đi theo con đường xuất trần siêu
thoát. Anh đợi lâu như thế lỡ ra anh đổi
ư th́ sao.
- Anh đă nói vậy th́ bảy hôm nữa tôi sẽ đi
với anh. Thôi anh về đi.
Anurudha mừng rỡ về báo mẹ và anh biết tin này.
Bà mẹ không ngờ quan tổng trấn Baddhiya lại
chịu bỏ chức tước và danh vọng một
cách dễ dàng như vậy. Bà chợt thấy tầm cao
siêu của đạo lư giải thoát, và bà bằng ḷng cho
con đi xuất gia.
Anuruddha rủ thêm được một số các bạn
hữu nữa cùng đi xuất gia. Đó là Bhagu, Kimbila,
Devadatta và Ananda. Cả thảy là sáu người, tất
cả đều là các vương tử quư phái. Đúng
ngày hẹn, họ gặp nhau tại nhà Devadatta rồi lên
đường. Tất cả đều đă là những
chàng trai thành niên, trừ Ananda ra, Ananda mới có mười
tám tuổi, nhưng chàng đă được phép cha là thân
Bảy vị vương tử đi bằng xe tứ mă
cho đến khi họ tới một thị trấn
nhỏ nằm sát biên giới Kosala. Họ cho xe trở
về và cùng đi bộ tới biên giới. Họ
biết Bụt và các vị khất sĩ tùy tùng đang
cư trú ở Anupiya, cách biên giới không xa, Anurauddha
đề nghị mọi người cởi bỏ
hết những trang sức trên người và ăn
mặc thật đơn giản trước khi
vượt biên. Mọi người tán thành.
Họ cởi những xâu chuỗi ngọc và những
chiếc ṿng bàng vàng bằng bạc ra và gói lại trong
một cái áo. Họ định đi t́m một
người nghèo để tặng tất cả những
châu báu đó rồi sẽ t́m đường ra biên
giới sau.
Vừa định đi vào trong thôn để kiếm
một người nghèo th́ họ thấy có một quán
hớt tóc bên đường. Cái quán khá tồi tàn:
người thợ hớt tóc là một chàng thanh niên
trạc tuổi họ, mặt mày cũng khôi ngô, nhưng
ăn mặc rách rưới nghèo nàn. Anuruddha ghé vào quán. Chàng
hỏi tên người thợ hớt tóc. Anh ta nói anh tên là
Upali. Chàng nói các vị vương tử muốn nhờ anh
ta chỉ đường ra biên giới. Upali bằng ḷng.
Upali đưa các vương tử đến biên giới
nước Kosala, Anh ta chào các vị vương tử
để trở về. Anuruddha cám ơn Upali và trao cho Upali
một chiếc áo cuốn tṛn trong đó có đầy
đồ trang sức châu báu. Chàng nói:
- Upali, chúng tôi muốn theo Bụt xuất gia. Chúng tôi không
cần những thức trang sức châu báu này. Chúng tôi
tặng lại anh. Từng ấy châu báu vàng bạc
đủ để anh sống sung sướng suốt
đời.
Các vương tử chào Upali, và lên đường.
Người thọ hớt tóc mở chiếc áo ra. Vàng
ngọc làm anh ta lóe mắt. Anh ta không tin đây là sự
thật. Anh thuộc về giai cấp hạ tiện trong
xă hội. Cha ông của anh đời này sang đời khác
đă sống cần cù lam lũ và chưa bao giờ có
được một lạng vàng hay một chiếc cà rá.
Bây giờ đây anh có một bọc châu báu trong tay.
Bỗng nhiên anh cảm thấy lo sợ. Ôm một bọc
châu báu trong người, anh cảm thấy anh mất
hết sự an ổn và thảnh thơi. Anh có thể
mất mạng như chơi nếu có người
biết anh đang ôm cái ǵ trong tay.
Upali suy nghĩ. Anh thấy các vương tử giàu sang
đến thế, quyền hành nhiều như thế mà
vẫn bỏ hết để đi xuất gia. Chắc
chắn những người này đă nhận thấy
nặng nề và nguy hiểm của giàu sang và của danh
vọng. Anh chợt có ư liệng bỏ gói châu báu để
đi theo các vị vương tử, t́m cầu anh lạc
và giải thoát. Nghĩ như thế, anh làm ngay. Anh treo gói
áo trên một cành cây gần đó, thầm nhủ rằng
ai là người đầu tiên thấy được gói
châu báu này th́ gói châu báu này sẽ thuộc về
người ấy. Treo gói áo lên cây xong, anh vượt biên
và chạy theo các vị vương tử.
Chỉ một giờ sau, Upali bắt kịp họ. Các
vị vương tử ngạc nhiên thấy Upali chạy
theo ḿnh. Devadatta hỏi:
- Upali, anh chạy theo chúng chúng tôi làm chi? Gói châu báu anh
để đâu?
Upali thở hổn hển một hồi, rồi kể
lại câu chuyện.Chàng nói chàng đă treo gói áo lên một
cành cây và nguyện tặng lại châu báu ấy cho
người đầu tiên bắt gặp. Chàng nói chàng không
cảm thấy an ổn với gói châu báu và xin
được cùng các vị vương tử t́m tới
Bụt để xuất gia.
Devadatta cười ha hả:
- Anh cũng muốn xuất gia như chúng tôi? Anh là ...
Anuruddha ngắt lời Devadatta:
- Hay lắm, hay lắm! Chúng tôi rất hân hạnh
được anh cùng đi với chúng tôi. Bụt có
dạy rằng tăng đoàn như là biển cả, và
người xuất gia như những con sông. Sông nào
cũng chay ra biển và cũng thành biển. Chúng ta tuy
xuất thân từ những giai cấp khác nhau, nhưng khi
đă gia nhập tăng đoàn th́ chúng ta sẽ là anh em,
không c̣n phân biệt giai cấp nữa.
Baddhiya tán thành ư kiến của Anuruddha. Chàng đưa tay
nắm tay người thợ cạo Upali. Chàng giới
thiệu chàng là quan tổng trấn từng tri nhậm các
tỉnh miền Bắc của vương quốc, và chàng
giới thiệu các vị vương tử khác với
Upali. Upali cúi chào từng vị với một dáng
điệu kính cẩn. Sau đó bảy người
lại tiếp tục lên đường.
Ngày hôm sau họ tới Anupiya. Họ hỏi thăm nơi
cư trú của Bụt và tăng đoàn. Họ
được biết Bụt và tăng đoàn hiện
cư trú ở một khu rừng về phía Đông Nam cách
thành phố chừng hai dặm. Bảy người t́m
tới nơi này và được gặp Bụt.
Baddhiya thay mặt cả nhóm tŕnh lên Bụt ư nguyện
của họ được theo Bụt xuất gia.
Bụt lặng yên ưng thuận. Baddhiya nói:
- Chúng con xin Bụt cho Upali được xuất gia
trước. Chúng con sẽ lạy Upali như là một
vị sư huynh. Như vậy chúng con có thể trừ
khử ư niệm phân biệt và kỳ thị có thể c̣n
sót lại nơi chúng con.
Bụt khen ngợi cả bảy người. Bụt cho
Upali làm lễ xuất gia trước, và sau đó làm lễ
xuất gia cho sáu người: Baddhiya, Anuruddha, Bhagu, Kimbala,
Devadatta và Ananda. Tuy mới có mười tám tuổi, Ananda
cũng được xuất gia, nhưng chàng chỉ
được thọ giới sa di và học theo hạnh
khất sĩ. Đúng hai mươi tuổi chàng mới
được thọ giới khất sĩ. Chàng là
người trẻ nhất trong tăng đoàn, trừ
Rahula. Được gặp lại chú Ananda, Rahula mừng
lắm. Ba hôm sau lễ thọ giới của bảy chàng,
Bụt và các vị khất sĩ rời Anupiya,
hướng về Vesali.
Tại Vesali, Bụt nghỉ ở rừng Mahavana, Bụt
lưu lại ba hôm ở đây. Trong thời gian ấy
Bụt có thuyết pháp cho dân chúng, rồi Bụt lại lên
đường. Đi lần hồi trên mươi hôm
nữa, Bụt về tới tu viện Trúc Lâm ở
Rajagaha.
Các đại đức Kassapa, Moggallana, và Kondanna thấy
Bụt về rất hoan hỷ. Đại chúng trong tu
viện đông gần sáu trăm vị, ai cũng tỏ
vẻ vui mừng. Vua Bimbisara nghe Bụt đă về,
lập tức t́m tới thăm Bụt. Không khí Trúc Lâm
rất sống động và vui tươi. Mùa Mưa
đă gần tới, và các đại đức Kondanna và
Kassapa đă chuẩn bị đầy đủ về
mặt tổ chức để đại chúng có thể
an cư tu học. Đây là mùa an cư thứ ba từ ngày
Bụt thành đạo. Mùa thứ nhất, Bụt ở
vườn Nai, mùa thứ hai và mùa thứ ba, Bụt ở
tại Trúc Lâm.
Đại đức Baddhiya, trước kia làm quan
tổng trấn miền Bắc vương quốc Sakka, và
là người trong hoàng tộc Sakya, tu học rất tinh
tiến. Tại tu viện Trúc Lâm, ông học theo đại
đức Kassapa, chỉ cư trú dưới gốc cây mà
không ngủ trong am thất. Ông học tập rất chuyên
cần và sử dụng phần lớn th́ giờ của
ông vào việc thực tập thiền quán.
Một đêm kia trong lúc thực tập thiền tọa
dưới một gốc cây, ông bỗng cảm nhận
một niềm vui sướng mà chưa bao giờ ông
từng biết tới trong thời gian c̣n ở nhà. Ông
thốt lên:
- Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc!
Lúc ấy trời đă về khuya. Có một vị
khất sĩ ngồi thiền tọa cách ông không xa nghe
được những tiếng ấy. Sáng hôm sau, vị
này tới gặp Bụt. Ông thưa với Bụt:
- Thế Tôn, hồi khuya trong lúc thiền tập, con có nghe
khất sĩ Baddhiya thốt lên hai tiếng “Ôi, hạnh
phúc!”, con nghĩ là thầy Baddhiya không cảm thấy
thoải mái với đời sống xuất gia. Có lẽ
thầy ấy tiếc nuối những giàu sang và danh
vọng khi c̣n là cư sĩ. Con xin tŕnh bày để
Thế Tôn biết, và để người định
liệu.
Bụt gật đầu.
Trưa hôm ấy sau khi tăng đoàn đă thọ trai,
Bụt thuyết pháp cho đại chúng. Sau thời
thuyết pháp, Bụt gọi đại đức Baddhiya
ra tŕnh diện. Đại chúng có mặt đầy
đủ trong giờ này, không những các vị khất
sĩ mà c̣n có những người đệ tử cư
sĩ đă đến cúng dường và nghe pháp. Bụt
hỏi:
- Baddhiya, hồi khuya trong lúc thiền tọa, thầy có
thốt lên “Ôi, hạnh phúc! Ôi, hạnh phúc", có đúng
như thế không?
Đại đức Baddhiya chắp tay trả lời:
- Thế Tôn, hồi đêm quả thật con có thốt lên
những tiếng đó.
- Tại sao xin thầy hăy nói cho đại chúng cùng nghe.
- Thế Tôn, ngày trước làm tổng trấn, con
sống trong giàu sang, phú quư và có nhiều quyền lực.
Đi đâu con cũng có một đội binh theo hầu
cận và bảo vệ. Dinh phủ của con luôn luôn có binh
lính cánh gác ngày đêm, bên trong cũng như bên ngoài. Vậy
mà lúc nào con cũng lo lắng, sợ hăi, cảm thấy
thiếu an ninh.
Bây giờ đây đi một ḿnh trong rừng, ngồi
một ḿnh dưới cội cây trong đêm vắng,
vậy mà con không hề có cảm tưởng nghi ngại
và sợ hăi. Con cảm thấy có một niềm thảnh
thơi và an lạc chưa bao giờ từng có. Thế Tôn,
đời sống xuất gia thật là thoải mái
đối với con, con không sợ ai, con không sợ
mất ǵ, con không có ǵ để sợ mất, và con
sống vui thú như một con nai trong rừng. Trong
thiền định đêm qua con thấy được
rất rơ niềm thảnh thơi vui thú đó, cho nên con
đă buột miệng kêu lên hai lần: “Ôi, hạnh phúc!,
Ôi, hạnh phúc!" làm kinh động đến Thế
Tôn và các bạn tu của con. Con xin thành tâm sám hối.
Bụt ngợi khen Baddhiya trước mặt đại
chúng. Người nói:
- Hay lắm, khất sĩ Baddhiya. Thầy đang đi
những bước vững chải trên con
đường tự tại và vô úy. Niềm an lạc
của thầy, cả chư thiên cũng biết
ước ao, huống nữa là người đời.
Giữa mùa an cư năm ấy, Bụt có độ cho
nhiều người xuất gia, trong số đó một
nhân tài lỗi lạc: đó là Mahakassapa, Mahakassapa là con trai
một thương gia giàu có vào bậc nhất ở
vương quốc Magadha. Tên cha mẹ đặt của
chàng là Pippali. Gia tài của vị thương gia này chỉ
thua có công khố quốc gia mà thôi, trong nước không ai
giàu có bằng
Hai người đă sống với nhau được
mười hai năm, nhưng cả hai đều có chí
xuất trần, cả hai đều muốn t́m thầy
học đạo.
Một buổi sáng nọ khi thức giấc, Mahakassapa thấy
vợ ḿnh đang ngủ say và một cánh tay nàng buông
thỏng từ trên giường xuống tới gần
mặt đất. Trong khi đó có một con rắn
độc đang trườn qua dưới gầm
giường nàng. Mahakassapa nín thở, không dám động
dậy. Khi con rắn đă ḅ ra khỏi nhà, chàng tức
tốc chỗi dậy đánh thức nàng.
Cả hai người cùng ngồi chiêm nghiệm về tính
cách vô thường của cuộc đời. Vợ chàng
khuyên chàng nên tức tốc đi t́m thầy học
đạo. Nghe nói có Bụt hiện đang hướng
dẫn đại chúng tu học tại Trúc Lâm gần thành
chương ba mươi chín
Ba Lần Thức Dậy
Trời Vẫn Chưa Sáng
Mùa an
cư mới chấm dứt được ba hôm, th́ có
một người thương gia trẻ tên là Sudatta
từ vương quốc Kosala đến thăm Bụt
và thỉnh cầu Bụt về vương quốc
của chàng để giảng dạy đạo lư
tỉnh thức.
Sudatta là một thương gia rất giàu có. Chàng cư trú
ơ thủ đô Savatthi nơi quốc
Cả vương quốc Kosala đều biết
tiếng chàng, và Suddatta nổi tiếng là người
biết che chở và bênh vực cho những kẻ nghèo
khổ và cô độc.
Chàng luôn luôn để ra một phần của gia sản
ḿnh để chu cấp cho những kẻ nghèo hèn và không có
thân nhân. Công việc giúp đỡ người khốn
khổ này chàng đă làm liên tục trong nhiều năm và
chàng t́m được rất nhiều nguồn vui trong công
việc ấy. Người đồng bào của chàng
đă tặng cho chàng cái mỹ hiệu là Anathapindika, có
nghĩa là “người cứu giúp cho kẻ khốn cùng và
cô độc”, gọi là Cấp Cô Độc. Để có
thể tiếp tục công việc cứu trợ những
kẻ nghèo khổ, Suddatta phải tiếp tục nghề
nghiệp của ḿnh là một thương gia. Chàng hay qua
lại nước Magadha để buôn bán và mỗi khi
tới thủ đô Rajagaha, chàng thường cư trú
tại nhà của người anh vợ của chàng,
vốn cũng làm nghề buôn bán. Người anh vợ này
rất quư mến chàng. Mỗi khi chàng đến, ông ta làm
đủ mọi cách để giúp đỡ chàng và làm cho
thời gian cư trú tại Rajagaha của chàng
được dễ chịu. Ông săn sóc chàng từng li
từng tí. Tuy nhiên, kỳ nầy Suddatta không
được ông anh vợ đặc biệt chú ư tới
như những kỳ trước. Ông bận rộn
cắt đặt và sai phái những người ăn
người ở trong nhà như là nhà sắp có đám
giỗ hay đám cưới, và đối với chàng em
rể giàu có, lần này ông chỉ chú ư và săn sóc một
cách vừa phải thôi. Suddatta lấy làm lạ. Chàng hỏi
th́ người anh vợ nói không có đám giỗ mà cũng
không có đám cưới nào cả. Cũng không phải là
để rước hoàng gia về nhà thết đăi. Ông
nói:
- Ngày mai, anh mời Bụt và các vị khất sĩ
tới thọ trai.
Nghe nói đến tiếng Bụt, Suddatta ngạc nhiên. Chàng
hỏi lại:
- Anh nói sao, ngày mai anh thỉnh “Bụt” hả?
- Đúng rồi ngày mai anh thỉnh Bụt và các vị
khất sĩ học tṛ của người.
- “Bụt”? nghĩa là “người
tỉnh thức"?
- Đúng rồi. Bụt là người tỉnh thức.
Đó là một bậc giác ngộ toàn vẹn. Đó là
một con người thật mầu nhiệm và thật
đẹp đẽ. Sáng mai, thế nào em cũng sẽ
được gặp người.
Danh từ Bụt gây nên trong tâm tư Suddatta biết bao nhiêu
nguồn cảm hứng. Chàng bắt ông anh vợ ngồi
xuống và nói thêm cho chàng nghe về con người giác
ngộ này. Ông anh vợ chàng kể rằng anh đă được
trông thấy các vị khất sĩ học tṛ của
đi khất thực, đă t́m hiểu về Bụt,
đă tới nghe Bụt thuyết pháp tại tu viện Trúc
Lâm và đă được người chấp nhận là
đệ tử tại gia của người. Ông cũng
kể là hồi đầu mùa an cư ông đă
được Bụt cho phép dựng thêm những chiếc
nhà nhỏ lợp lá làm chỗ che mưa nắng cho các
vị khất sĩ. Trong một ngày, ông đă cho dựng
luôn sáu mươi căn nhà như thế rải rác trong
khuôn viên của tu viện Trúc Lâm.
Không biết v́ một duyên cớ thâm sâu nào đó mà Suddatta
đem ḷng thương mến Bụt sau khi mới nghe nói
đến danh hiệu của người. Suốt đêm
đó Suddatta không ngủ yên giấc. Chàng cứ mong cho
trời sáng để có thể đi viếng Bụt
tại tu viện Trúc Lâm dù chàng biết hôm nay Bụt và giáo
đoàn của người sẽ tới thọ trai
tại nhà ông anh vợ. Ba lần chợt tỉnh trong
đêm là ba lần chàng tưởng trời đă sáng,
nhưng trời vẫn chưa sáng. Cuối cùng, Suddatta,
chỗi dậy, trời chưa sáng, nhưng chàng nhất
quyết ra đ́m Bụt. Chàng mặc áo, mang giầy và
mở cửa ra đi một ḿnh.
Trời khuya c̣n đầy sương và lạnh. Qua
cổng Sivaka, chàng hướng về phía tu viện Trúc Lâm.
Trời c̣n tối lắm, nhưng khi chàng vào tới
cổng tu viện th́ dáng cây dáng lá đă bắt đầu
hiện rơ. Suddatta nóng ḷng muốn gặp Bụt nhưng
trong tâm c̣n e ngại. Chàng nói một ḿnh để trấn
tĩnh: “Suddatta, đừng e ngại”.
Lúc ấy Bụt đă thức, và người đang
đi thiền hành ngoài trời ngay phía trước mặt
chàng mà chàng không biết.
Bụt gọi: “Suddatta".
Suddatta giật ḿnh. Tiếng gọi đến từ phía
trước. Chàng ngửng nh́n lên th́ thấy dáng một
người đang đi tới. Linh tính báo cho chàng biết
rằng đó là Bụt. Bụt đă gọi tên chàng. Chàng
đang đi tới với Bụt và Bụt đang đi
tới với chàng. Suddatta bước tới một
bước nữa và chắp tay cúi đầu làm lễ
Bụt.
Bụt đỡ Suddatta dậy và cầm tay chàng đưa
về tịnh thất của người. Tới nơi
chàng được Bụt mời ngồi. Chàng hỏi
thăm Bụt có ngủ ngon không. Người nói
người ngủ rất ngon. Suddatta tự giới
thiệu ḿnh và kẻ cho Bụt nghe chuyện chàng thức
dậy ba lần trong đêm và cứ tưởng trời
đă sáng. Chàng xin Bụt dạy cho chàng về đạo
lư. Và Bụt bắt đầu giảng dạy cho chàng
về trí tuệ và từ bi.
Suddatta rất sung sướng. Chàng lạy xuống xin
Bụt nhận chàng làm đệ tử. Bụt lặng yên
chấp nhận. Chàng lại thỉnh Bụt và giáo đoàn
ngày mai tới thọ trai tại nhà người anh vợ
của chàng. Bụt cười:
- Hôm nay thầy và các vị khất sĩ sẽ tới
đây thọ trai rồi. Không lư ngày mai cũng tới
đây nữa sao?
Suddatta khẩn khoản:
- Ngày hôm nay là anh con thỉnh cầu Bụt. Ngày mai
người thỉnh cầu Bụt và và các vị khất
sĩ lại là con. Con tiếc không có nhà cửa riêng ở
đây để có thể thỉnh cầu Bụt và các thầy.
Xin Bụt từ bi chấp nhận cho con.
Bụt mỉm cười nhận lời Suddatta. Chàng sung
sướng làm bái biệt ngài. Trời đă sáng hẳn.
Chàng phải về để giúp ông anh vợ chuẩn
bị công cuộc đón tiếp Bụt và giáo đoàn.
Trưa hôm ấy, tại nhà ông anh vợ. Suddatta lại
được nghe Bụt thuyết pháp. Niềm hân hoan
của chàng như không có bến có bờ. Tiễn Bụt
và giáo đoàn về xong, Suddatta bắt đầu chuẩn
bị lo lễ cúng dường ngày mai. Ông anh vợ hết
sức giúp đỡ chàng. Ông nói:
- Suddatta, ở đây dượng là khách chứ không
phải là chủ. Thôi để anh đứng ra đài
thọ lễ cúng dường ngày mai cho.
Suddatta không chịu. Chàng muốn tự ḿnh thiết lễ
cúng dường. Chàng nhất quyết đài thọ
mọi phí tổn, nhưng chàng bằng ḷng để cho gia
đ́nh ông anh vợ tiếp tay với sự nấu
nướng và dọn dẹp.
Ngày mai, sau lễ cúng dường, Suddatta lại
được nghe Bụt thuyết pháp. Ḷng chàng nở ra
như một đóa hoa. Sau khi Bụt đă nói xong pháp
thoại, chàng quỳ xuống thỉnh nguyện:
- Lạy Bụt, hầu hết dân chúng nước Kosala
chúng con chưa có cơ duyên tiếp đón Bụt và giáo
đoàn tôn quư của người để được
học hỏi về đạo lư tỉnh thức. Con
cầu mong Bụt chấp nhận lời mời của
con về cư trú và giảng dạy tại kinh đô
Savathi trong một thời gian. Chúng con xin Bụt rủ ḷng
thương xót dân chúng của vương quốc Kosala.
Bụt nói với Suddatta là người sẽ về đàm
luận với các vị đệ tử lớn của
người về chuyện này và sẽ trả lời
chàng sau.
Sau đó Bụt và giáo đoàn trở về tu viện.
Mấy hôm sau tới tu viện, Suddatta được
Bụt cho biết là người đă chấp nhận
việc đi hoằng pháp tại vương quốc
Kosala. Người hỏi Suddatta xem ở gần thủ
đô Savathi có chỗ cư trú cho một giáo đoàn đông
đảo không. Suddatta bạch rằng chàng sẽ lo
liệu chu toàn về việc cư trú của giáo đoàn.
Suddatta c̣n thỉnh Bụt cho phép một vị cao
đệ của Bụt là đại đức Sariputta
về thủ đô Savathi một lần với chàng
để chuẩn bị cho công cuộc hoằng pháp
của Bụt. Bụt hỏi ư Sariputta th́ thầy bằng
ḷng.
Một tuần lễ sau đó, Suddatta tới tu viện
từ giă Bụt cùng giáo đoàn, đồng thời
rước đại đức Sariputta cùng lên
đường về thủ đô.
Hai người hướng về phương Bắc,
vượt sông Hằng và đi lên thành Vesali. Tại Vesali,
hai người được bà Ambapali rước về
cư trú và nghỉ ngơi tại vườn Xoài trong hai
hôm. Đại đức Sariputta có cho nữ phật
tử Ambapali biết là Bụt cùng giáo đoàn sẽ mở
một chuyến đi hoằng pháp tại vương
quốc Kosala và cũng sẽ ghé qua thành phố Vesali này.
Ambapali rất vui mừng. Bà hỏi thăm đại
đức xem chừng nào Bụt sẽ ghé ngang qua
để bà có thể chuẩn bị đón tiếp
Bụt và giáo đoàn. Đại đức nói là trong
khoảng sáu tháng. Bà tỏ ư rất hoan hỷ
được tiếp đón thầy Sariputta và cư
sĩ Suddatta. Bà ngơ lời khen ngợi vị trưởng
giả trẻ tuổi này về công tŕnh cứu tế xă
hội của chàng và khuyến khích chàng trong công việc tổ
chức chuyến đi hoằng pháp sắp đến
của Bụt.
Từ giă Ambapali, hai người hướng về phía Tây
Bắc, đi trên tả ngạn ḍng sông Aciravati. Đây là
lần đầu Suddatta đi bộ trên một quăng
đường dài như thế. Chàng không thể dùng xe
ngựa bởi v́ chàng phải cùng đi bộ với
đại đức Sariputta. Đến đâu chàng
cũng báo tin là trong ṿng sáu tháng Bụt và giáo đoàn sẽ
đi qua và mọi người nên chuẩn bị
để đón tiếp.
“Bụt là một bậc tỉnh thức vừa xuất
hiện trên cơi đời. Bà con cô bác hăy thành tâm chuẩn
bị để đón tiếp người và giáo đoàn
cao quư của người". Vương quốc Kosala là
một nước hùng mạnh không kém ǵ vương
quốc Magadha. Biên giới miền Nam của vương
quốc là sông Hằng. Đất đai của
vương quốc trải dài tới miền Bắc cho
đến những ngọn đồi sát chân dăy Hy Mă
Lạp Sơn. Dân chúng ở vương quốc Kosala không
mấy ai là không nghe đến Suddatta. Ai cũng gọi
chàng là trưởng giả Cấp Cô Độc,
Anathapindika, người chu cấp cho những kẻ
bần cùng và cô độc. Khi chàng mở lời ca tụng
bậc giác ngộ, ai cũng tin ngay lời chàng. Ai cũng
ước ao được thấy mặt Bụt và giáo
đoàn của người. Đại đức Sariputta
sáng nào cũng ghé vào các thôn xóm để khất thực, và
Suddatta thường đi theo người, Suddatta
thường lấy cơ hội tiếp xúc này để
nói cho đồng bào chàng nghe về Bụt và về giáo
đoàn các vị khất sĩ.
Đi như thế được non một tháng th́ hai
người về tới Savathi. Đại đức
Sariputta được Suddatta mời về nhà để
cúng dường. Chàng ân cần giới thiệu đại
đức với gia đ́nh chàng và cầu xin đại
đức thuyết pháp cho mọi người nghe. Thân
phụ, thân mẫu và nội trợ của chàng đều
xin phát nguyện thọ tŕ ba sự quay về nương
tựa và năm giới. Nội trợ của Suddatta tên là
Punnalakkhana, dáng người đoan trang và thùy mị. Nàng
đă có bốn đứa con với Suddatta. Cả bốn
đều c̣n nhỏ tuổi, ba đứa đầu là
con gái và đứa chót là con trai. Đứa lớn tên là
Subhadha chị, đứa kế tên là Subgadha em, đứa
áp út tên là Sumagadha, cậu con trai tên là Rala.
Đại đức Sariputta bắt đầu đi hành
hóa trong thủ đô Savathi. Buổi chiều và ban đêm,
thầy về cư trú tại một khu rừng thưa
gần bờ sông. Trong khi đó Suddatta đi t́m một
nơi khả dĩ có thể làm chỗ cư trú thuận tiện
cho Bụt và giáo đoàn trong chuyến hoằng pháp quan
trọng sắp đến
chương bốn mươi
Bao Nhiêu Tấc Đất
Bấy Nhiêu Tấc Vàng
Suddatta đi xem xét
nhiều nơi nhưng chưa có nơi nào đẹp
đẽ và thanh tịnh bằng khu lâm viên của thái
tử Jeta nằm sát thủ đô Savathi. Chàng nghĩ
nếu có được khu lâm viên này làm cơ sở
lưu trú và hành đạo của Bụt và giáo đoàn th́
đạo lư tỉnh thức sẽ được
truyền bá sâu rộng trong vương quốc. Suddatta t́m
đến thái tử Jeta xin gặp.
Hôm ấy trong dinh thự của thái tử có mặt
một vị văn quan trong triều mà Suddatta cũng có
quen biết. Sau khi chào hỏi thái tử và vị văn
quan, Suddatta tŕnh bày ước muốn của ḿnh và xin thái
tử nhượng lại cho chàng khu vườn của
thái tử để làm cơ sở tu học và hoằng
pháp cho Bụt.
Thái tử Jeta mới có hai mươi tuổi. Khu
vườn này là của vua Pasenadi ban cho chàng năm ngoái.
Thái tử nh́n vị văn quan rồi nh́n Suddatta nói:
- Khu vườn ấy là của phụ vương tôi cho
tôi, và tôi quư nó như vàng. Nếu ông có đủ vàng lá
đem trải đầy khu vườn th́ tôi sẽ
nhường nó lại cho ông.
Thái tử Jeta nói nửa đùa nửa thật nhưng
thương gia trẻ tuổi lại không cho đó là
chuyện đùa. Chàng nói:
- Được rồi, tôi sẽ theo điều kiện
của thái tử đặt ra. Sáng mai, tôi sẽ cho chở
vàng tới.
Thái tử Jeta giật ḿnh:
- Tôi nói đùa đó mà, tôi không bán khu vườn của tôi
đâu. Ông đừng chở vàng tới.
Nhưng Suddatta vẫn nghiêm trang:
- Thưa thái tử, ngài là một bậc vương
giả, ngài đă nói ra lời nào th́ chắc lời ấy
không thể bị xóa bỏ.
Rồi Suddatta quay sang hỏi vị văn quan đang
ngồi uống nước với thái tử:
- Thưa đại nhân, có phải đúng như vậy
không?
Vị văn quan gật đầu. Ông ta xoay về phía thái
tử Jeta:
- Vị thương gia Anathapindika này nói đúng, thưa
điện hạ, đă không ra giá th́ thôi, một khi đă
đưa giá cả th́ ta không có quyền không bán.
Thái tử Jeta đành nhượng bộ. Tuy nhiên chàng hy
vọng rằng Suddatta không có đủ vàng. Thái tử
chưa kịp nói ǵ thêm th́ Suddatta đă đứng dậy
chắp tay tạ ơn và cáo biệt.
Ngay sáng hôm sau, chàng cho người chở vàng tới lót khu
vườn.
Thái tử Jeta chứng kiến cảnh tượng lót vàng
này và rất lấy làm kinh ngạc. Thái tử biết
đây không phải là một chuyện mua bán tầm
thường. Không ai bỏ ra một số vàng lớn
như thế để mà mua một khu vườn
giải trí. Bụt và giáo đoàn của người
chắc chắn là những nhân vật lỗi lạc
lắm cho nên người thương gia này mới phát tâm
dũng mănh như thế này được. Nghĩ
thế, thái tử tới gần Suddatta và hỏi thăm
chàng về Bụt. Mắt vị thương gia sáng lên.
Chàng kể cho cho thái tử nghe về con người
của Bụt, về đại cương giáo lư của
người và về giáo đoàn các vị khất sĩ.
Chàng lại hứa ngày mai sẽ đến mời thái
tử đi thăm viếng đại đức Sariputta,
một vị cao đệ của Bụt, hiện đang
có mặt tại thủ đô. Nghe Suddatta nói, thái tử Jeta
cũng cảm thấy hứng khởi trong ḷng. Lúc bấy
giờ người của Suddatta đă chở vàng
được ba chuyến và đă lót được
khoảng hai phần ba khu vườn. Khi chiếc xe
sắp đi chuyến thứ tư th́ thái tử Jeta
đưa tay ngăn lại. Thái tử nói với Suddatta:
- Thôi, ông lót từng ấy vàng đủ rồi. Phần
đất c̣n lại là phần tôi hiến tặng cho
Bụt và giáo đoàn. Tôi cũng muốn góp phần vào công
tŕnh lớn lao và đẹp đẽ của ông. Tôi nói
như thế này, ông nghe có được không nhé: cứ
xem như là ông cúng đất, c̣n tôi th́ cúng cây cho tu
viện. Sau này có ai hỏi th́ ta có thể nói rằng tu
viện này tên là “Vườn Anathapindika với cây của
Jeta”. Ông chịu không?
Suddatta rất hoan hỷ. Chàng hân hoan thấy thái tư Jeta chịu đóng góp vào công cuộc
hoằng pháp lớn lao này.
Chiều hôm sau, chàng đến rước thái tử đi
thăm đại đức Sariputta, để thái tử
được thấy nhân cách của thầy và
được nghe thuyết pháp. Sau đó, cả ba
người cùng đi đến khu vườn mà Suddatta
vẫn gọi là Jetavana, dù chàng đă đứng tên làm
địa chủ. Suddatta hỏi ư kiến thầy Sariputta
và thái tử Jeta về kế hoạch xây dựng cư xá,
thiền đường, nhà giảng và pḥng tắm. Chàng
muốn dựng một mái tam quan trước cổng tu
viện trên khoảng đất của thái tử Jeta cúng
dường để kỷ niệm và cũng để
làm vui ḷng thái tử. Thầy Sariputta đă đưa ra nhiều
chỉ dẫn rất quư báu về việc xây dựng
cư xá, thiền đường, nhà giảng và pḥng
tắm, bởi v́ thầy biết rất tường
tận về những nhu yếu của các sinh hoạt tu
viện. Một nơi êm mát được chỉ
định để làm am lá cho Bụt. Những con
đường được vạch ra, và những
giếng nước được bắt đầu
đào. Sariputta khẩn khoản yêu cầu đại
đức Sariputta cư trú ngay tại Jetavana để giúp
chàng điều động công việc xây cất những
tiện nghi tu viện. Có những buổi sáng gia đ́nh
Suddatta mang thức ăn lên để cúng dường
đại đức. Vào những hôm này đai đức
không đi khất thực, c̣n vào những buổi khác,
đại đức thường mặc áo mang bát đi
khất thực trang nghiêm trong thành phố. Dân chúng thủ
đô dần dần biết tới đại đức,
và từ câu chuyện Suddatta lót vàng mua đất Jetavana
đă được truyền đi khắp nơi. Ai cũng
biết rằng vị thương gia trẻ Anathapindika
đă mua đất của thái tử và đang xây cất
tu viện cho một giáo đoàn sẽ từ Magadha tới.
Thỉnh thoảng vào những buổi chiều, đại
đức Sariputta thuyết pháp tại Jetavana và dân chúng
thủ đô đă bắt đầu đi nghe khá đông,
Bụt vẫn chưa tới mà đạo của Bụt
đă được dân chúng hâm mộ.
Bốn tháng sau, khi công cuộc xây cất đă gần hoàn
tất, đại đức Sariputta lên đường
trở về Rajagaha đón Bụt.
Buổi sáng khi đại đức Sariputta về tới
Vesali, thầy thấy bóng dáng rất nhiều chiếc áo
vàng trong thành phố. Hỏi ra thầy biết là Bụt và
trên năm trăm vị khất sĩ đă tới Vesali
trước đó mấy hôm. Hiện Bụt đang cư
trú trong Rừng Lớn. Sariputta lập tức t́m về
giảng đường thăm Bụt. Bụt cho thầy
biết là nữ cư sĩ Ambapali vừa mới tới
thỉnh Bụt và giáo đoàn tới thọ trai ngày mai
tại vườn Xoài của bà. Người hỏi
thăm về cuộc hoằng hóa của thầy ở
Savatthi. Sau khi nghe Sariputta kể lại những ǵ đă
xảy ra tại thủ đô vương quốc Kosala,
Bụt cho thầy biết rằng hiện các đại
đức Kondanna và Uruvela Kassapa đang hướng dẫn
đại chúng tu học tại Trúc Lâm và tất cả các
vị khất sĩ hành đạo trong vương
quốc Magadha đă được Bụt thông báo nên y
chỉ vào hai thầy ấy.
Trong số năm trăm vị khất sĩ đi theo
Bụt, hai trăm vị sẽ ở lại hành
đạo tại tiểu bang Videha và tại Vesali, c̣n ba
trăm vị sẽ theo Bụt qua Kosala. Mọi việc
đều đă được các thầy phụ tá
sắp đặt chu đáo. Bụt cho biết ngày mốt
Bụt sẽ rời Vesali để lên đường
đi Savatthi và người bảo thầy Sariputta cùng
đi với người.
Được cúng dường Bụt và giáo đoàn
khất sĩ tại vườn Xoài của ḿnh. Ambapali
rất lấy làm măn nguyện. Bà chỉ tiếc cậu con
trai của bà là Jivaka đă không có ở nhà để
thừa tiếp Bụt và giáo đoàn. Cậu đang theo
học ngành y khoa gần thủ đô Rajagaha. Ngày hôm qua, sau
khi tới thỉnh Bụt ra về, bà gặp một
số các vương tử Licchavi ở giữa
đường. Các vị vương tử này là những
người có quyền thế vào bậc nhất ở
Vesali. Họ đi trên những chiếc xe song mă trang
sức cực kỳ lộng lẫy. Họ đón
đường bà. Chiếc song mă của bà phải
ngừng lại. Họ hỏi bà đi đâu. Ambapali
trả lời bà vừa đi thỉnh Bụt và giáo
đoàn ngày mai về dùng cơm trưa. Các vị
vương tử đề nghị bà hủy bỏ
việc mời Bụt đi và chỉ nên mời họ.
Họ nói:
- Nếu nàng chịu mời chúng tôi, chúng tôi sẽ trả
giá bữa cơm ngày mai là một trăm ngàn đồng
vàng.
Theo ư các vị vương tử, mời các ông thầy tu
th́ chẳng có ích lợi và vui vẻ ǵ. Ambapali trả
lời:
- Quư vị vương tử chưa biết Bụt nên
mới nói như thế. Tôi đă mời Bụt và giáo
đoàn của người vào ngày mai rồi. Quư vị
vương tử có cho tôi cả thành Vesali cùng tất
cả đất đai vao quanh thành, tôi cũng không đánh
đổi bữa cơm ngày mai cho các vị, đừng
nói là các vị trả cho tôi một trăm ngàn đồng
vàng. Thôi tôi xin phép quư vị được về nhà
sớm để lo cho cuộc đón tiếp ngày mai.
Các vương tử Licchavi bắt buộc phải tránh
đường cho bà đi. Ambapali đâu có biết
rằng sau khi tránh đường cho bà đi, họ đă
rủ nhau t́m đến Bụt để xem ông thầy tu
này là ai mà Ambapali kính trọng đến thế. Họ t́m
đến Rừng Đại Lâm. Họ đậu xe
ở ven rừng và đi bộ vào.
Bụt biết đây là những thanh niên có nhiều
hạt giống từ bi và trí tuệ. Người mời
họ ngồi và kể chuyện cho họ nghe.
Người kể cho họ nghe về thân thế và
lịch tŕnh tu đạo của người. Rồi
người nói về đạo lư diệt khổ, và lư
tưởng giải thoát. Người biết họ
cũng thuộc về giai cấp Ksatriya, cũng thuộc
về hoàng tộc như người. Nh́n họ,
người thấy h́nh ảnh của người ngày
xưa. Câu chuyện người nói v́ thế rất có
vẻ thân mật.
Sau khi được nghe Bụt thuyết pháp, các vị
vương tử Licchavi bừng tỉnh. Họ thấy
được họ. Họ thấy sự hưởng
thụ giàu sang và quyền bính không đủ để
đem lại cho họ hạnh phúc. Họ t́m thấy lư
tưởng cho tuổi trẻ họ. Tất cả
đều xin nguyện làm học tṛ tại gia của
Bụt. Họ ngơ lời thỉnh Bụt ngày mai đến
thọ trai. Bụt mỉm cười:
- Ngày mai tôi đă được Ambapali mời rồi.
Các vị vương tử cũng mỉm cười.
Họ nhớ lại cuộc đối đáp giữa
họ và Ambapali trước đó. Một vị nói:
- Vậy th́ chúng con xin thỉnh Bụt vào ngày mốt.
Bụt mỉm cười chấp thuận.
Tại lễ cúng dường tổ chức ở
vườn Xoài. Ambapali đă mời các thân hữu của
bà đến để nghe Bụt thuyết pháp. Một
số các vương tử Licchavi cũng đă
được mời tham dự buổi lễ này.
Ngày hôm sau, Bụt với trên một trăm vị khất
sĩ tới dự lễ trai tăng tại trú sở các vương
tử Licchavi. Bụt và các vị khất sĩ
được đón tiếp rất long trọng. Các
thức ăn được cúng dường tuy là
những thức ăn chay nhưng đều là những
thức trân quư vào bậc nhất. Các loại trái cây như
mít, xoài, chuối, và hồng táo đều đă
được hái từ vườn cây của các
vương tử. Thọ trai xong, Bụt giảng cho
mọi người nghe về giáo nghĩa duyên sinh và con
đường của tám sự hành tŕ chân chính. Bài
giảng của ngài làm rung động tâm can của
người nghe. Mười hai vị vương tử
đă cầu Bụt cho được xuất gia. Bụt
vui ḷng chấp nhận họ. Trong số những
người được xuất gia hôm ấy có Otthaddha
và Sunakhatta, hai vị vương có ảnh hưởng
lớn trong bộ tộc Licchavi.
Cuối buổi cúng dường, các vị vương
tử trong bộ tộc Licchavi khẩn khoản thỉnh
Bụt và giáo đoàn sang năm về an cư tại Vesali.
Họ hứa sẽ cất tu viện và giảng
đường trong khu Rừng Lớn để có chỗ
an cư cho Bụt và hàng trăm vị khất sĩ.
Bụt chấp thuận lời thỉnh cầu này.
Sáng hôm sau, nữ cư sĩ Ambapali đến viếng
Bụt rất sớm. Bà ngơ ư muốn Bụt nhận
vườn Xoài của bà như một phẩm vật cúng
dường của bà cho giáo đoàn khất sĩ. Bụt
nhận lời.
Sau đó, Bụt cùng Sariputta và tăng đoàn lên
đường đi về thủ đô Savatthi.
chương bốn mươi
mốt
Thương! Mầm Mống
Của Khổ Đau
Đường
về Savatthi đối với đại đức
Sariputta đă trở nên quen thuộc. Trên con đường
nầy thầy và cư sĩ Anathapindika đă gây
được nhiều niềm tin nơi dân chúng
đối với Bụt và giáo đoàn của
người. Lần này Bụt đi tới đâu là
được dân chúng tiếp đón niềm nở
tới đó.
Trên tả ngạn con sông Aciravati, có nhiều khu rừng mát
mẻ, nơi ấy Bụt và giáo đoàn khất sĩ có
thể nghỉ ngơi mỗi tối. Đoàn người
chia làm ba nhóm, nhóm của Bụt đi đầu, có
thầy Sariputta hướng dẫn, nhóm thứ hai do đại
đức Assaji cầm đầu, nhóm thứ ba có
đại đức Moggallana chăm sóc.
Các đoàn khất sĩ đi rất trang nghiêm, khi khất
thực cũng như lúc đi trên đường rất
dài. Dân chúng các thôn xóm ven sông thỉnh thoảng
được nghe pháp thoại của Bụt hay trên
một bờ sông.
Ngày tới Savatthi, Bụt và giáo đoàn được
hướng dẫn về thẳng Kỳ Viên tức là tu
viện Jetavana. Thấy trung tâm tu học được xây
dựng và trang bị khéo léo và chu tất. Bụt nh́n Suddatta
và ngỏ lời khen ngợi. Suddatta rất sung
sướng. Chàng thưa với Bụt rằng đó
cũng là nhờ ư kiến và công tŕnh của đại
đức Sariputta và thái tử Jeta.
Chú tiểu Rahula, năm nay đă hai mươi hai tuổi.
Theo nguyên tắc chú phải thân cận với đại
đức Sariputta để học hỏi với
thầy, nhưng sáu tháng nay v́ thầy Sariputta vắng
mặt cho nên chú đă được giao lại cho
đại đức Moggallana. Về tới tu viện
Jetavana, chú lại được theo hầu thầy
Sariputta như cũ.
Hoàng thái tử Jeta và cư sĩ Suddatta thiết kế
một lễ cúng dường ngay tại tu viện
mới, ngay sau ngày giáo đoàn tới Savatthi. Dân chúng quanh
vùng được mời tới chiều hôm ấy
để nghe Bụt thuyết pháp. Đă nghe nói tới
Bụt và giáo đoàn từ nhiều tháng rồi cho nên hôm
ấy dân chúng thủ đô về tu viện rất
đông. Bụt đă nói về bốn sự thật và con
đường tám sự hành tŕ chân chính. Trong số
những ngồi nghe Bụt có cả hoàng hậu Mallika, phu
nhân của quốc
Nghe thuyết pháp xong, hoàng hậu và công chúa có cảm t́nh
ngay với Bụt. Cả hai người thấy tâm
hồn như mở ra. Cả hai đều muốn xin làm
đệ tử Bụt, nhưng chưa dám. Hoàng hậu
tự nhủ là phải có sự đồng ư của vua
mới có thể đến Bụt xin quy y. Hoàng hậu
Mallika biết thế nào trong tương lai vua Pasenadi
cũng có cảm t́nh với Bụt, em gái của vua
hiện giờ là chánh hậu của vua Bimbisara nước
Magadha, đă quy y với Bụt từ ba năm nay.
Trong số những người đến nghe Bụt
thuyết pháp hôm ấy cũng có nhiều nhân vật quan
trọng thuộc các giáo phái tôn giáo đang thịnh hành
ở Savatthi. Họ đến v́ ṭ ṃ hơn là v́ t́m
học. Có người nghe Bụt xong chợt thấy tâm
hồn cởi mở. Có người nghe Bụt xong th́
thấy người là một thế lực tranh chấp
đáng ngại, nhưng ai nấy đều công nhận
rằng sự xuất hiện của Bụt tại thành
Savatthi này là một biến cố rất trọng
đại trong lịch sử tư tưởng và tôn giáo
ở vương quốc Kosala.
Hôm ấy sau khi lễ cúng dường và buổi thuyết
pháp đă hoàn măn, cư sĩ Suddatta trân trọng tới
quỳ trước Bụt và bạch với người:
- Con và gia đ́nh con cùng tất cả các bạn hữu kính
dâng tu viện Jetavana này lên cho Bụt và giáo đoàn. Mong
Bụt và giáo đoàn chấp nhận cho chúng con.
Bụt nói:
- Suddatta, công đức của quư vị thật to lớn.
Giáo đoàn khất sĩ nhờ có cơ sở này mà có
nơi tránh mưa, tránh nắng, thú hoang, rắn rết và
muỗi ṃng. Đây là một cơ sở tu học rất
thuận lợi cho các vị khất sĩ đến
từ bốn phương, trong hiện tại cũng
như trong tương lai. Quư vị đă hết ḷng
hộ tŕ chánh pháp, tôi mong là quư vị sẽ giữ vững
chí hướng trên con đường tu tập.
Sáng hôm sau, Bụt và giáo đoàn khất sĩ ôm bát và đi
vào thành khất thực. Đại đức Sariputta
đă chia các vị khất sĩ thành hai mươi đoàn
khất thực, và mỗi đoàn mười lăm
vị. Sự có mặt của các chiếc áo vàng trong thành
phố đă khiến cho dân chúng nói nhiều tới tu
viện Jetavana. Phong thái nghiêm trang, và lặng lẽ của
các vị khất sĩ đă làm cho dân chúng thủ đô
mến phục tăng đoàn.
Cứ mỗi bảy hôm th́ lại có một buổi
thuyết pháp tại tu viện Jetavana, những buổi
thuyết pháp này do Bụt chủ tŕ. Dân chúng đến
dự rất đông. Chỉ trong ṿng mười hôm
quốc
Trong một bữa cơm hoàng gia, vua đem chuyện giáo
đoàn của Bụt ra nói, hoàng hậu Mallika cho vua
biết là thái tử Jeta có đóng góp và việc xây dựng
tu viện. Vua cho đ̣i thái tử đến và hỏi
về Bụt. Thái tử Jeta thực ḷng tâu vua về
những ǵ ḿnh nghe thấy. Thái tử nói là nếu
được vua cho phép, thái tử sẽ xin quy y làm
học tṛ tại gia của Bụt.
Vua pasenadi không tin là một người trẻ tuổi
như Bụt mà đă chứng đạt được
quả vị giác ngộ và giải thoát cao tột như
lời đồn đăi. Theo lời thái tử th́ Bụt
chỉ mới có ba mươi chín tuổi. Ba mươi
chín tuổi là tuổi của vua. Vua nghĩ đức
độ của Bụt làm sao cao bằng đức
độ của những bậc lănh tụ tôn giáo lớn
tuổi như Purana Kassapa, Makkhali Gosala, Nigantha Nathaputta và
Sanjana Belatthiputta. Ḷng vua nửa tin nửa ngờ. Vua
nghĩ thầm là khi nào có cơ hội vua sẽ t́m tới
thăm Bụt để t́m hiểu trực tiếp con
người mà cả hoàng hậu Mallika cả thái tử
Jeta đều tỏ ḷng cảm mến và kính phục.
Mùa Mưa sắp tới, Bụt quyết định
sẽ cùng đại chúng an cư tại tu viện Jetavana,
đă có kinh nghiệm từ những mùa kết hạ
trước tại tu viện Trúc Lâm, năm nay các thầy
phụ tá cho Bụt tổ chức mùa an cư rất
dễ dàng và chu đáo. Số người mới xuất
gia tại Savatthi đă lên tới sáu mươi vị.
Suddatta đă đem tới cho tu viện rất nhiều
bạn hữu, những người này rất sốt
sắng trong việc tổ chức cúng dường và
bảo trợ cho những sinh hoạt tu học tại tu
viện.
Một buổi chiều nọ, Bụt tiếp một
người đàn ông c̣n trẻ nhưng mặt mũi
bơ phờ. Được Bụt hỏi thăm,
người này nói là đứa con trai độc nhất
của ông ta mới chết. Suốt mấy ngày nay, ông ta
cứ ra ngoài băi tha ma, vừa khóc vừa kêu lên: “Con ơi,
bây giờ con ở đâu?”, ông ta không thiết ǵ
đến ăn uống và ngủ nghỉ. Bụt nói:
- Đời là như thế đó, này ông bạn. Hễ có
thương là có khổ.
Người đàn ông không chấp nhận lời của
Bụt. Ông ta phản đối.
- Thầy nói sai rồi, thương không làm cho người
ta khổ, thương chỉ đem lại cho
người ta hạnh phúc và niềm vui mà thôi!
Nói xong, người ấy bất măn đứng dậy và
bỏ đi, không cho Bụt có cơ hội giải thích
thêm về lời người vừa nói. Ông ta đi lang
thang một hồi th́ gặp một toán người
đang xúm nhau đánh bạc. Ông ta ngồi xuống tham
dự và nhân tiện kẻ lại cho bọn người
nghe về cuộc gặp gỡ vừa rồi với
Bụt. Những người đàn ông đang cờ
bạc với nhau đều đồng ư với ông ta, cho
rằng lời Bụt nói là sai. “Thương làm sao mà
lại đem tới sầu khổ và thất vọng cho
được. Thương chỉ đem tới hạnh
phúc và niềm vui mà thôi! Anh nói đúng đấy, ông sa môn
Gotama nói sai rồi”.
Câu chuyện này được truyền ra và chẳng
mấy chốc đă trở nên đề tài bàn tán sôi
nổi của những giáo phái ở thủ đô Savatthi.
Nhiều vị lănh tụ giáo phái cũng cho rằng Bụt
có một quan niệm sai lầm về thương yêu, và
rốt cuộc câu chuyện được truyền
đến tai quốc
Chi
- Cái vị sa môn mà người ta thường gọi là
Bụt ấy có thể không phải là người
giỏi.
Hoàng hậu hỏi:
- Tại sao hoàng thượng nói như vậy? Ai đă chê
sa môn Gotama?
- Sáng nay ta có nghe các quan trong triều bàn tán về sa môn
Gotama. Họ nói rằng theo sa môn Gotama, càng thương
nhiều th́ càng lo lắng, sầu khổ và thất
vọng nhiều mà thôi.
Hoàng hậu Mallika tâu vua:
- Nếu sa môn Gotama đă nói như thế th́ chắc đó
là sự thật.
Vua Pasenadi không bằng ḷng. Vua nói:
- Hoàng hậu đừng nên nói thế. Ḿnh phải biết
suy xét chứ. Đừng làm như một em bé hễ
thầy giáo nói điều ǵ th́ cứ cho ngay điều
ấy là đúng.
Hoàng hậu im lặng không nói ǵ. Bà biết là vua chưa có
cảm t́nh với Bụt. Sáng hôm sau bà nhờ một
người Bà-la-môn tâm phúc là Nalijangha tới viếng
Bụt và hỏi xem có thật là người đă nói
rằng “thương là nguồn gốc của lo lắng,
sầu khổ và thất vọng” không? Bà dặn là nếu
Bụt có nói như thế th́ hăy xin Bụt giải nghĩa
thêm cho rơ ràng và phải ghi nhớ hết những
điều người dạy để về thuật
lại cho bà.
Nalijangha tới thăm Bụt và được Bụt
kể cho mấy câu chuyện chứng tỏ rằng
thương là khổ. Bụt nói:
- Tại Savatthi này tôi nghe nói một người thiếu
nữ vừa mất mẹ. Cô ta đau khổ quá
đến phát điên, cả ngày cứ đi ngoài
đường gặp ai cũng hỏi: ông có gặp
mẹ tôi đâu không? Bà có thấy mẹ tôi đâu không?
Cũng tại Savatthi, tôi lại mới nghe nói có hai thanh
niên nam nữ yêu nhau, nhưng gia đ́nh cô lại ép gă
người con gái cho một chàng trai mà cô ta không yêu. Do
đó mà hai người yêu nhau phải rủ nhau tự
tử, nghĩ rằng chỉ có cái chết mới kết
hợp họ với nhau được. Nội hai câu
chuyện này cũng có thể chứng tỏ rằng
thương là khổ”.
Nalijangha về thuật lại những câu chuyện ấy
cho hoàng hậu Mallika nghe.
Một hôm nhân lúc vua Pasenadi rảnh rỗi, hoàng hậu
hỏi vua:
- Bệ hạ nghĩ thế nào, công chúa Vajiri có phải là
người bệ hạ thương yêu và cưng
chiều nhất hay không?
- Đúng như vậy, ta thương yêu và cưng
chiều con gái ta nhất.
- Vậy nếu có ǵ không may xảy ra cho công chúa Vajiri th́
bệ hạ có lo lắng, sầu khổ và thất
vọng không?
Vua Pasenadi giật ḿnh. Vua thấy rằng trong cái
thương, có những mầm mống của lo lắng,
sầu khổ và thất vọng. Vua tự nhiên mất
hết an lạc. Câu nói của Bụt chứa đựng
một sự thật phũ phàng làm cho vua ngẩn ngơ.
Vua nói:
- Hôm nào có dịp trẫm cũng sẽ đến thăm
viếng viếng sa môn Gotama.
Nghe vua nói như thế, hoàng hậu rất vui mừng. Bà
tin rằng không được gặp Bụt th́ thôi,
chứ nếu được gặp Bụt thế nào vua
cũng sẽ có cảm t́nh với Bụt.