Thích Nhất Hạnh
Đường
Xưa Mây Trắng
chương bốn mươi hai
Không Hiểu Biết Th́ Không Thể
Thương Yêu
Vua Pasenadi
đến thăm Bụt một ḿnh, không có hoàng hậu và
công chúa đi theo. Vua cũng không đem theo vị văn
quan hay vơ quan nào. Ngài để xe và thị vệ ngoài
cổng tu viện Jetavan và đi bộ vào một ḿnh. Vua
được Bụt tiếp trước chiếc am lá
của người. Sau khi an vị và trao đổi
những lời thăm hỏi, vua hỏi Bụt một
cách trực tiếp:
- Sa môn Gotama, người ta thường ca ngợi ngài là
Bụt, là đă đạt tới quả vị giác
ngộ cao nhất. Trẫm băn khoăn tự hỏi:
tuổi của ngài c̣n nhỏ, năm tu của ngài cũng
c̣n ít, thế mà tại sao ngài lại đạt tới
thành quả đó được? Trẫm đă nghe nói
đến những vị đạo cao đức
trọng như Puruna Kassapa, như Makkhali Gosala, như
Nigantha Nathaputta, như Sanjaya Belatthiputta ... những vị
này là người người tu lâu năm, tuổi tác
đều lớn, tại sao họ không tự nhận
họ là bậc giác ngộ hoàn toàn? Lại c̣n những
vị như Pakudha Kaccayana và Ajita Kesakambali nữa. Ngài có
nghe nói đến những vị ấy không?
Bụt ôn tồn:
- Đại vương, tôi có nghe nói tới các vị
ấy và có vị tôi cũng đă từng được
gặp. Đại vương, sự tỉnh thức không
tùy thuộc vào tuổi tác, và năm tháng không quyết
định được sự có mặt của giác
ngộ. Đại vương, có những cái bé nhỏ mà
ta không nên khinh thường: một vị vương
tử bé, một con rắn con, một đốm lửa
nhỏ và một nhà tu trẻ. Vị vương tử tuy
bé nhưng cũng có vương tính của một đức
vua như bệ hạ bậy giờ, một con rắn
nhỏ có thể làm ta mất mạng trong chốc lát.
Một đốm lửa hồng có thể làm thiêu rụi
một khu rừng hay một thành phố lớn và một
nhà tu trẻ có thể đạt tới quả vị giác
ngộ hoàn toàn. Đại vương! Người khôn
ngoan không bao giờ khinh thường một một
vương tử bé, một con rắn nhỏ, một
đốm lửa hồng và một nhà tu trẻ.
Vua Pasenadi nh́n Bụt kinh ngạc. Người ngồi trước
mặt vua đă nói với vua những điều trên
một cách điềm đạm. Những điều
Bụt nói không hàm chứa một hào ly mặc cảm nào.
Vua bắt đầu có đức tin nơi Bụt. Vua
hỏi Bụt về điều mà vua c̣n thắc mắc và
chưa giải quyết được xong xuôi:
- Sa môn Gotama, có người nói rằng ngài chủ
trương không nên thương yêu, bởi v́ càng
thương nhiều th́ càng lo lắng nhiều, càng
thương nhiều th́ càng sầu khổ nhiều, càng
thương nhiều th́ càng thất vọng nhiều.
Trẫm nghĩ rằng điều đó có thể đúng,
nhưng ḷng trẫm vẫn không yên. Trẫm nghĩ nếu
không có thương yêu th́ cuộc đời sẽ khô khan
và vô vị lắm. Xin ngài giải dùm những nghi nan ấy
cho trẫm.
Bụt nh́n vua:
- Đại vương, câu hỏi của ngài rất hay,
và nhiều người sẽ được khai sáng
nhờ câu hỏi này. Tiếng thương yêu có nhiều
nghĩa, ta phải xét cho kỹ về bản chất
của từng loại thương yêu. Cuộc đời
cần đến đến sự thương yêu,
nhưng không phải là thứ thương yêu dựa trên
căn bản của dục vọng, của đam mê và
vướng mắc, của phân biệt và kỳ thị.
Đại vương, có một thứ t́nh thương mà
cuộc đời rất cần đến, đó là ḷng
từ bi. Từ là maitri, c̣n bi là karuna.
Đại vương, t́nh thương mà người
đời thường nói tới là t́nh thương
giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng,
giữa những người cùng trong họ hàng, cùng thân
tộc, cùng giai cấp hoặc cùng quốc gia. V́ t́nh
thương ấy c̣n dựa vào ư niệm “tôi” và “của
tôi” cho nên bản chất của nó c̣n là sự vướng
mắc và phân biệt.
Người ta chỉ muốn thương cha của ḿnh,
thương mẹ của ḿnh, thương chồng
của ḿnh, thương vợ của ḿnh, thương con
của ḿnh, thương cháu của ḿnh, thương họ
hàng của ḿnh, thương đất nước của
ḿnh, cho nên người ta c̣n vướng mắc và phân
biệt. Vướng mắc cho nên lo lắng về
những bất trắc có thể xảy đến dù chúng
chưa xảy đến, vướng mắc cho nên
phải gánh chịu sầu đau và thất vọng
mỗi khi có những bất trắc xảy đến.
Phân biệt cho nên có thái độ nghi kỵ, hờ
hững và ghét bỏ đối với những
người ḿnh không thương. Vướng mắc và
phân biệt đều là những nguyên nhân của khổ
đau, khổ đau cho ḿnh và cho người.
Đại vương, thứ t́nh thương mà muôn loài
đang khao khát là ḷng từ bi. Từ là thứ t́nh
thương có thể đem đến an vui cho kẻ khác,
bi là thứ t́nh thương có thể làm vơi đi
những khổ đau của kẻ khác. Từ và bi là
thứ t́nh thương không có điều kiện, không
bắt buộc và không đ̣i hỏi bất cứ một
sự đền đáp nào. Trong từ bi, người
được thương không phải chỉ là cha ta,
mẹ ta, vợ ta, chồng ta, con ta, huyết thống ta,
giai cấp ta ... Kẻ được thương là
tất cả mọi người và mọi loài.
Trong từ và bi không có sự phân biệt ta và không ta,
của ta và của không của ta. V́ không phân biệt nên
không có vướng mắc. Từ và Bi chỉ đem
lại niềm vui và làm giảm đi nỗi khổ;
Từ và Bi không gây lo lắng sầu khổ và thất
vọng. Thiếu từ bi, cuộc đời sẽ khô
khan, khổ đau và buồn chán như đại
vương nói. Có từ bi, cuộc đời sẽ có an
lạc, hạnh phúc và tươi vui. Đại
vương, ngài là bậc nhân chủ cầm đầu
của cả một nước, dân chúng vương
quốc ngài sẽ được thấm nhuần ân
đức ngài nếu ngài tu tập được tâm
Từ và tâm Bi.
Vua cúi đầu suy nghĩ một lúc. Sau đó vua ngửng
lên hỏi Bụt:
- Trẫm có một gia đ́nh để coi sóc, có một
vương quốc phải chăm lo. Nếu trẫm không
thương yêu gia đ́nh của trẫm và dân chúng trong
vương quốc của trẫm th́ làm sao trẫm có
thể coi sóc và chăm lo cho họ được? Xin
Bụt soi sáng điểm này cho trẫm.
- Cố nhiên là đại vương phải thương
yêu gia đ́nh hoàng gia và phải thương yêu dân chúng
của vương quốc. Nhưng t́nh thương yêu
của đại vương có thể vượt
khỏi phạm vi gia đ́nh và vương quốc.
Đại vương thương yêu và chăm sóc cho các
hoàng tử và công chúa. Điều đó không ngăn cản
việc đại vương có thể thương yêu và
chăm sóc cho tất cả những người trẻ
khác trong vương quốc như là thương yêu và
chăm sóc chính con trai và con gái của đại
vương. Nếu đại vương làm
được như vậy th́ t́nh thương hạn
hẹp trở thành t́nh thương rộng lớn, và
đột nhiên tất cả những người trẻ
tuổi trong vương quốc đều trở nên con
trai và con gái của đại vương. Đó đích
thực là tâm từ bi. Đây không phải là một
điều quá lư tưởng. Đây là một điều
con người có thể thực hiện được
nhất là khi con người ấy có trong tay những
phương tiện như đại vương. Nếu
đại vương phát được nguyện lớn
th́ đại vương chắc chắn có thể làm
được điều này.
- Nhưng c̣n những người trẻ tuổi trong các
vương quốc khác?
- Không có ǵ ngăn cản đại vương
thương yêu những người trẻ tuổi trong
các vương quốc khác như con trai và con gái của
ngài, dù những người này không nằm trong vùng cai
trị của đại vương. Không phải v́
thương yêu dân chúng của quốc gia ḿnh mà ḿnh không
thể thương yêu dân chúng của các quốc gia khác.
- Thương yêu như thế nào? Họ có nằm
dưới quyền cai trị của ḿnh đâu?
Bụt nh́n vua:
- Sự giàu mạnh và an ổn của một quốc gia
không phải được tạo nên bởi sự nghèo
hèn và loạn lạc của những quốc gia khác.
Đại vương, nền ḥa b́nh và thịnh
vượng lâu dài của một quốc gia chỉ có
thể được xây dựng trên sự ḥa hiếu
giữa các quốc gia và ư hướng về một
nền thịnh vượng chung. Nếu đại
vương thực sự muốn cho vương quốc
Kosala có ḥa b́nh và những người trai trẻ trong
vương quốc không phải xông pha nơi lửa
đạn th́ đại vương cũng phải
giữ ǵn làm sao cho các vương quốc kế cận cũng
có ḥa b́nh và để những trai trẻ các xứ đó
cũng khỏi phải xông pha trong ṿng lửa đạn.
Chính sách ngoại giao và kinh tế của đại
vương phải thực sự đi theo con
đường của tâm từ bi th́ đại
vương mới có thể làm được chuyện
này. Như vậy trong khi đại vương thương
yêu và chăm sóc cho quốc gia Kosala, đại vương
cũng chăm sóc cho các vương quốc khác như
Magadha, Sasi, Videha, Sakya và Koliya.
Đại vương, mới năm ngoái đây, sau khi
về thăm gia đ́nh và vương quốc Sakya, tôi và
nhiều vị khất sĩ có tới du hóa ở Arannakutila,
thuộc lănh thổ của quư quốc, sát chân núi Hy Mă
Lạp Sơn. Ở đó tôi đă suy nghiệm về
một chính sách trị nước căn cứ trên nguyên
tắc bất bạo động. Tôi thấy các vị
quốc vương rất có thể cai trị nghiêm minh,
đem lại an ḥa và hạnh phúc của muôn dân mà không
cần sử dụng đến những biện pháp
bạo động như chinh phạt, xử tử, giam
hăm, tù đày v.v... Tôi đă nói những điều này
với phụ vương tôi, vua Suddhodana. Nhân tiện
đây tôi cũng muốn xác định điều đó
với đại vương. Làm nhà chính trị giỏi,
đại vương có thể trị nước mà không
cần đến những phương thức bạo
động, nếu ngài biết un đúc và nuôi dưỡng
Từ Bi.
Vua thốt lên:
- Thật là kỳ diệu! Thật là kỳ diệu!
Chưa bao giờ trẫm được nghe những
lời giáo huấn mới lạ và sâu sắc như
thế! Ngài thật là một bậc tôn quư trên đời!
Những điều Bụt dạy, trẫm xin lĩnh giáo
để về chiêm nghiệm, bởi v́ trẫm biết
những lời dạy ấy có những chiều sâu cần
phải khám phá. Bây giờ trẫm xin hỏi ngài một câu
hỏi thật đơn giản. Thói thường, th́ t́nh
thương của người đời bao giờ
cũng ẩn chứa ư niệm phân biệt, và ít nhiều
cũng mang tính chất đam mê và vướng mắc. Theo
Bụt th́ thứ t́nh thương có thể gây nên lo
lắng, sầu khổ, và thất vọng. Vậy nếu
không thương như thế th́ ta phải thương
làm sao? Ví dụ như trẫm đây, trẫm phải
thương con cái của trẫm như thế nào
để tránh được những lo lắng, sầu
khổ và thất vọng?
- Không ai cấm cản chúng ta thương yêu, nhưng ta
phải biết quán sát để thấy được
bản chất của t́nh thương chúng ta.T́nh
thương theo lẽ th́ phải làm cho người
được thương yêu có an lạc và hạnh phúc,
nhưng nếu chỉ là đam mê, là ích kỷ, là ư chí
chiếm hữu th́ t́nh thương này không thực sự
là t́nh thương, t́nh thương này không làm cho
người được thương có an lạc và
hạnh phúc. Trái lại nó làm cho kẻ kia cảm thấy tù
túng, lệ thuộc, mất hết tự do, mất
hết phẩm cách của một con người có tự
do. T́nh thương trong trường hợp này chỉ là
một tù ngục. Nếu người được
thương không có hạnh phúc, nếu người ấy
không chấp nhận cái nhà tù của sự chiếm hữu
th́ t́nh thương kia sẽ dần dần biến thành
sự ghét bỏ và hận thù.
Đại vương biết không, tại kinh đô
Savatthi này cách đây chỉ có mười hôm, một
chuyện thương tâm đă xảy ra chỉ v́ t́nh
thương không được thỏa măn đă biến
thành hận thù. Có một bà mẹ cảm thấy mất
mát khi đứa con trai duy nhất của bà đem ḷng
thương yêu một cô thiếu nữ và sau đó
cưới cô ấy về làm vợ. Bà mẹ kia thay v́
thấy rằng ḿnh có thêm một đứa con, lại
cảm thấy rằng ḿnh đă mất một đứa
con, và cho rằng con trai ḿnh đă phản bội t́nh
thương của ḿnh. Nghĩ như thế, hận thù
nảy sinh trong tâm bà. Một hôm bà đă bỏ thuốc
độc vào thức ăn, và cả con trai lẫn con dâu
đều chết v́ ngộ độc. Đại
vương! Trong đạo lư giác ngộ, thương yêu
phải đi đôi với hiểu biết, thương
yêu chính là hiểu biết. Nếu không hiểu biết th́
không thể thương yêu, vợ chồng không hiểu
nhau th́ không thể thương nhau, anh em không hiểu nhau
th́ không thể thương nhau. Muốn cho một
người nào có hạnh phúc, ḿnh phải t́m hiểu cho
được những ước vọng và những
khổ đau của chính người ấy. Hiểu
được rồ́ ḿnh mới có thể làm mọi cách
để cho người ấy bớt khổ đau và có
hạnh phúc. Như vậy mới gọi là t́nh
thương chân thật, c̣n nếu ḿnh chỉ muốn
kẻ kia làm theo ư ḿnh, và không biết ǵ đến những
khổ đau và những nhu cầu chân thực của
người ấy th́ đó không phải là thương.
Đó chỉ là ước muốn chiếm hữu hoặc
ước muốn thỏa măn ư nguyện của ḿnh, cho dù
đó là ư nguyện muốn cho người kia sung
sướng.
Đại vương! Dân chúng trong vương quốc
Kosala có những đau khổ và những ước
vọng của họ. Nếu đại vương
thực sự hiểu thấu những đau khổ và
những ước vọng ấy th́ đại
vương sẽ thực sự thương yêu
được họ. Các quan chức trong triều cũng
có những đau khổ và những ước vọng
của họ. Nếu đại vương thực
sự thấu hiểu những đau khổ và ước
vọng ấy, đại vương có thể làm cho
họ sung sướng và họ sẽ suốt đời
trung thành với đại vương. Hoàng hậu, các thái
tử và công chúa, mỗi người đều cũng có
những đau khổ và những ước vọng
của ḿnh; nếu đại vương thực sự thấu
hiểu được những đau khổ và những
ước vọng ấy, đại vương cũng
sẽ làm cho họ sung sướng, và khi mọi
người được sung sướng và an lạc th́
chính đại vương cũng sẽ được
sung sướng và an lạc. Đó là nghĩa thương
yêu trong đạo lư tỉnh thức.
Vua Pasenadi cảm thấy xúc động. Chưa có một
vị đạo sĩ hay một vị Bà la môn nào đă
chiếu rọi ánh sáng vào các ngơ ngách tâm tư của vua và
làm cho vua thấy hiểu được tâm ḿnh một cách
rơ ràng như thế. Vị sa môn, vua nghĩ là một
bảo vật quư giá không lường của vương
quốc, xứng đáng làm thầy của ta.
Vua cúi đầu suy nghĩ. Một lát sau, vua ngửng
mặt nh́n Bụt:
- Trẫm cảm ơn ngài đă soi sáng nhiều cho
trẫm, nhưng c̣n một điều này nữa, trẫm
c̣n thắc mắc. Ngài đă nói rằng t́nh thương có
đam mê và vướng mắc thường có tác dụng
gây khổ đau và thất vọng, trong khi thương
theo đạo lư từ bi tuy không ích kỷ và không vụ
lợi nhưng cũng vẫn đem lại khổ đau
và thất vọng như thường. Trẫm cũng
thương dân, nhưng mỗi khi thấy dân chịu
khổ đau v́ những thiên tai như băo tố lụt
lội, dịch lệ ... th́ trẫm vẫn cảm thấy
khổ đau và thất vọng, mà trẫm nghĩ ngài
cũng thế, mỗi khi thấy người khác khổ
đau v́ bệnh hoạn, chết chóc, ngài cũng không
thể không khổ đau.
- Câu hỏi của đại vương rất hay;
nhờ câu hỏi này mà ngài có thể hiểu sâu thêm về
bản chất của từ bi. Trước hết,
đại vương nên biết rằng những khổ
đau do thứ t́nh thương có bản chất đam mê
và vướng mắc đem lại th́ nặng nề và to
lớn gấp muôn vạn lần những khổ đau mà
ḷng từ bi đă làm phát khởi trong ḷng ta. Kế đó,
đại vương phải phân biệt hai loại
khổ đau: một loại khổ đau hoàn toàn vô ích và
chỉ có công dụng tàn phá cơ thể và tâm hồn
người, một loại khổ đau nuôi dưỡng
được ḷng từ bi, ư thức trách nhiệm và
đưa tới ư chí hành động diệt khổ.
Thứ t́nh thương có bản chất đam mê và
vướng mắc v́ được nuôi dưỡng trong
tham đắm và si mê nên chỉ có thể đem lại
những phiền năo khổ đau làm tàn phá con
người, trong khi từ bi chỉ nuôi dưỡng xót
thương cho hành động cứu khổ. Đại
vương! sự xót thương
rất cần cho con người. Đó là một niềm
đau có ích. Không biết xót thương th́ con người
không thể là con người, v́ vậy những khổ
đau do ḷng xót thương đem lại là những
khổ đau cần thiết và có lợi lớn.
Sau nữa, đại vương nên biết là từ bi là
hoa trái của sự hiểu biết. Tu tập theo
đạo lư tỉnh thức là để chứng ngộ
được thực tướng của sự sống.
Thực tướng ấy là vô thường. Một
vật đều vô thường, vô ngă v́ vậy không
vật nào là không có ngày phải tàn hoại. Thấy
được tự tính vô thường của vạn
vật, người tu có một cái nh́n điềm
đạm và trầm tĩnh, v́ vậy những vô
thường xảy đến không làm xáo động
được tâm ḿnh. Cũng v́ vậy niềm xót
thương do ḷng từ bi nuôi dưỡng không bao giờ
có tính cách nặng nề và chua cay của những đau
khổ thế tục. Trái lại, niềm xót thương
này c̣n đem đến sức mạnh cho người tu
đạo.bbĐại vương! Hôm nay đại
vương đă nghe khái quát về đạo lư giải
thoát. Một hôm khác, tôi sẽ giảng giải thêm cho
đại vương về đạo lư này.
Với tâm hồn tràn đầy sự biết ơn,
quốc
Chiều hôm ấy, hoàng hậu Mallika và công chúa Vajiri
đột nhiên thấy vua trở nên rất ngọt nào và
thầm lặng. Hoàng hậu và công chúa biết đó là
hiệu quả của cuộc gặp gỡ giữa vua và
Bụt. Tuy nhiên cả hai đều không đả
động tới việc này. Họ rất muốn vua
kể lại cho họ nghe về cuộc gặp gỡ mà
họ biết là rất kỳ thú ấy, nhưng cả hai
người đều mặc nhiên đồng ư rằng
họ phải đợi tới một dịp khác.
chương bốn mươi
ba
Máu Ai Cũng Đỏ,
Nước Mắt Ai Cũng Mặn
Tuy quốc
Tuy nhiên giới trí thức và tuổi trẻ t́m tới tu
viện Jetavana càng lúc càng đông. Ngay trong mùa an cư, trên
một trăm năm mươi thanh niên đă xin
được xuất gia và đă được thầy
Sariputta cho làm lễ xuống tóc. Đại chúng tu học
rất tinh tấn trong ba tháng an cư này, và cứ bảy
hôm hay tám hôm một lần, tại tu việc có tổ
chức thuyết pháp. Thấy quốc
Mùa an cư được kết thúc bằng một
lễ cúng dường lớn. Vua và triều thần đă
nghe theo lời Bụt tổ chức một pháp hội,
cúng dường thực phẩm và y dược cho mọi
giới xuất gia, và chẩn tế cho những gia đ́nh
nghèo khổ nhất ở thủ đô và trong vương
quốc. Sau khi lễ này hoàn măn, vua và hoàng hậu
đều xin quy y với Bụt.
Sau mùa an cư, Bụt và giáo đoàn chia nhau đi hành hóa
tại các vùng lân cận ở thủ đô Savatthi. Số người
được tiếp xúc với Bụt và với giáo
đoàn càng ngày càng đông. Một hôm nọ, trong khi đi
khất thực ở một xóm ven đô nằm bên tả
ngạn sông Hằng, Bụt gặp một người gánh
phân. Người này thuộc về giai cấp hạ
tiện. Anh tên là Sunita, Sunita đă từng nghe nói về
Bụt và giáo đoàn khất sĩ, nhưng đây là
lần đầu tiên anh được trông thấy
Bụt và giáo đoàn. Sunita lúng túng. Anh biết anh đang
ăn mặc dơ dáy, người anh hôi hám và trên vai anh
đang gánh một gánh phân người. Sunita vội vă tránh
đường và t́m lối đi xuống bờ sông,
nhưng từ xa Bụt đă trông thấy Sunita.
Người quyết tâm độ người gánh phân này.
Thấy Sunita t́m lối đi xuống bờ sông,
Người cũng t́m lối đi xuống bờ sông
để đón đường chàng. Thấy Bụt làm
như thế, thầy Sariputta cũng bỏ hàng ngũ
của ḿnh đi theo Bụt. Thầy Meghiuya, thị giả
của Bụt thấy thế cũng bước theo
đại đức Sariputta. Tất cả các vị
khất sĩ khác tuy vẫn c̣n đứng trong hàng ngũ,
nhưng đều nhất loạt dừng lại im
lặng quan sát.
Sunita luống cuống. Chàng đặt gánh phân xuống, dáo
dác nh́n. Phía trên đường th́ các vị khất sĩ
áo ca sa vàng rựng đang đứng đầy cả
đường, phía dưới nầy th́ Bụt và hai
vị khất sĩ đang tiến tới và đi về
phía ḿnh. Chẳng biết làm sao, Sunita liền lội
xuống nước, đứng chắp hai tay lại.
Lúc bấy giờ, từ dăy nhà bên sông, dân chúng đă
đổ ra đứng nh́n khá nhiều. Từ già trẻ
trai gái, không ai biết chuyện đang xảy ra, Sunita v́
sợ làm ô uế giáo đoàn đă t́m cách tránh xuống
bờ nước, nhưng chàng đă bị Bụt
chặn đường. Chàng nghĩ giáo đoàn này gồm
toàn các giới quư phái và làm ô uế giáo đoàn là một
tội rất lớn không nào tha thứ được. Tuy
chàng đă lội xuống sông, nước ngập tới
đầu gối, nhưng gánh phân của chàng vẫn c̣n để
phía trên bờ nước. Chàng hy vọng Bụt và hai
vị khất sĩ v́ thế mà trở lên phía
đường trên trở lại.
Nhưng Bụt không trở lên, người đi tới
bờ nước, gần chỗ Sunita đứng,
người nói với chàng:
- Này anh bạn, anh lên trên này để chúng tôi nói chuyện.
Sunita chắp hai tay vái lia lịa:
- Bạch đại đức, con không dám! Bạch
đại đức, con không dám!
- Tại sao? Bụt dịu dàng hỏi.
- Con là người thuộc giai cấp hạ tiện, con
sợ làm ô uế ngài và giáo đoàn của ngài.
Bụt ôn tồn:
- Chúng tôi đă đi tu rồi, chúng tôi không c̣n phân biệt
giai cấp. Bạn cũng là người như tất
cả chúng tôi. Chúng tôi không sợ bị ô uế đâu.
Chỉ có tham dục, sân hận, và si mê mới làm ô uế
được chúng ta, chứ một con người
dễ thương như bạn th́ chỉ cho chúng tôi thêm
niềm vui mà thôi. Bạn tên là ǵ?
- Bạch ngài, con tên là Sunita.
- Sunita, bạn có muốn xuất gia làm khất sĩ
như chúng tôi không?
- Con không dám.
- Tại sao bạn không dám?
- Tại v́ con thuộc giới hạ tiện ngoại
cấp.
- Tôi đă nói người đi tu không c̣n phân biệt giai
cấp. Sunita! Trong đạo lư tỉnh thức và trong giáo
đoàn khất sĩ, không có sự phân biệt giai cấp.
Bạn hăy nghe đây. Nước trong các ḍng sông như sông
Ganga, sông Yamuno, sông Actravati, sông Sarabhu, sông Mahi, sông Rohini v.v...
một khi đă chảy ra biển
cả rồi th́ đều trở nên biển cả mà
không c̣n giữ lại cá tính và danh hiệu riêng biệt
của ḿnh. Cũng như vậy, người đi
xuất gia dù xuất thân từ giới quyền quư Khattiya
hoặc giới Bà-la- môn Brahma, hoặc các giới Vessa và
Suddha, hoặc không thuộc giai cấp nào, khi đă vào trong
giáo đoàn để tu học theo đạo lư tỉnh thức
th́ đều phải từ bỏ giai cấp và chủng
tộc của ḿnh để trở nên một người
khất sĩ. Sunita, nếu bạn muốn, bạn có
thể trở thành một vị khất sĩ như chúng
tôi.
Sunita hân hoan vô cùng, chàng chắp hai tay trên trán, thưa:
- Lạy Bụt, chưa có ai nói với con một lời
dễ thương như là người đă nói. Ngày hôm
nay là ngày hạnh phúc nhất của đời con. Con
sẽ rất sung sướng nếu Bụt cho con dự
vào hàng ngũ những người xuất gia trong
đạo lư của người. Nếu Bụt chấp
nhận con, con sẽ đem hết ḷng thành để theo
người!
Bụt trao b́nh bát cho thầy Meghiya. Người
bước xuống bờ hồ và đưa tay cho Sunita
bảo chàng nắm lấy. Rồi người bảo
thầy Sariputta:
- Sariputta! Thầy giúp tôi một tay. Chúng ta tắm gội
sạch sẽ cho Sunita và cho Sunita xuất gia ngay tại
đây, trên bờ nước này.
Đại đức Sariputta mỉm cười. Thầy
đặt b́nh bát của thầy trên bờ sông và
bước xuống giúp Bụt. Sunita không cảm thấy
thoải mái lắm khi được Bụt và thầy
Sariputta kỳ cọ và tắm rửa, nhưng chàng không dám
làm phật ḷng hai người. Bụt bảo thầy
thị giả lên t́m đại đức Ananda để
xin một chiếc y khoác ngoài, và người làm lễ
xuất gia cho Sunita ngay trên bờ sông. Làm lễ xuất gia
xong, Sunita được giao cho đại đức
Sariputta. Đại đức đưa vị khất
sĩ mới về tu viện Jetavana, trong khi Bụt và giáo
đoàn tiếp tục trên con đường khất
thực.
Tất cả những ǵ xảy ra bên bờ sông hôm ấy
dân chúng địa phương đều đă
được chứng kiến. Tin Bụt thâu nhận
Sunita một người làm nghề hốt phân, một
người thuộc giai cấp hạ tiện vào trong giáo
đoàn khất sĩ bắt đầu được loan
truyền các giới ở thủ đô, nhất là giới
tôn giáo, và đă gây xúc động lớn. Chưa bao giờ
ở vương quốc Kosala này mà một người
trong giới ngoại cấp như Sunita lại
được đón nhận và đưa vào hàng ngũ
của những nhà lănh đạo tinh thần. Có những
người lên án Bụt, cho rằng sa môn Gotama bất
chấp truyền thống và tập tục xă hội. Có
người đi xa hơn, cho là Bụt có ư gây đảo
lộn trật tự xă hội với mục đích phá
rối sự trị an trong nước.
Những bàn tán xôn xao này được vọng về tu
viện Jetavana do các giới nam nữ cư sĩ cũng có
mà do các vị khất sĩ về thuật lại cũng
có. Các vị đại đức lớn như Sariputta,
Mahakassapa, Mahamoggallana và Anuruddha đă t́m cơ hội
gặp Bụt để bàn về cách đối trị
lại những phản ứng của các giới ở
thủ đô về vụ khất sĩ Sunita. Bụt
bảo các thầy:
- Quư vị biết rằng sớm muộn ǵ chúng ta cũng
phải chấp nhận vào giáo đoàn những thiện nam
nữ trong giới ngoại cấp, bởi v́ giáo nghĩa
của chúng ta là giáo nghĩa b́nh đẳng, không chấp
nhận được sự phân chia giai cấp. Ta đă
gặp khó khăn bây giờ, nhưng nếu ta vượt
thắng được th́ ta sẽ mở được
cánh cửa chưa từng được mở ra trong
lịch sử, và các thế hệ mai sau này sẽ
được thừa hưởng công đức. Chúng ta
phải có can đảm.
Thầy Moggallana bạch:
- Can đảm th́ chúng con có đủ. Chúng con cũng có
đủ kiên nhẫn nữa, nhưng làm thế nào
để dư luận bớt xôn xao th́ công tŕnh vào
đời hành đạo của các huynh đệ khất
sĩ mới đỡ phần nặng nhọc.
Thầy Sariputta đề nghị:
- Điều quan trọng nhất là giáo đoàn tu học
cho tinh tấn. Con sẽ nổ lực giúp đỡ và
hướng dẫn cho khất sĩ Sunita. Sự thành công
của Sunita sẽ là bằng chứng hùng mạnh nhất
để bênh vực chúng ta. Huynh đệ chúng ta cũng
cần học cách giải thích cho quần chúng mỗi khi
tiếp xúc vói họ để cho họ hiểu
được chân nghĩa b́nh đẳng của con
đường Bụt dạy. Lạy Bụt, nếu
đức tôn qúy trên đời có cách thức ǵ hay hơn
nữa th́ xin người chỉ dạy chúng con.
Bụt để tay lên vai Sariputta:
- Những điều thầy nói đó rất đúng
với ư của tôi. Chúng ta cứ như thế mà hành tŕ.
Chừng một tháng sau, sự đồn đăi về
Sunita tới được tai quốc
Rồi một hôm vua bảo xa giá đưa ngài tới tu
viện Kỳ viên.
Xe ngừng trước cổng tu viện, vua một ḿnh
đi bộ vào. Bóng các vị khất sĩ áo vàng thấp
thoáng sau những hàng cây xanh mát trong khuôn viên tu viện.
Đă quen thuộc với con đường nhỏ
dẫn tới tịnh thất của Bụt, vua cứ
một ḿnh đi, không cần hỏi thăm. Thỉnh
thoảng trên đường đi, vua gặp một
vị khất sĩ. Mỗi lần như thế, vua
đều đứng lại chắp tay và cúi đầu.
Vị khất sĩ nào cũng đứng lại chắp
tay đáp lễ. Vua nhận thấy vị nào cũng có dáng
điệu trầm lặng, thong dong, không vội vă, và vua
bỗng nhiên cảm thấy đức tin của vua nơi
Bụt lớn mạnh bội phần.
Nửa đường vào tịnh thất, vua gặp
một vị khất sĩ đang thuyết pháp trên
một phiến đá, vây quanh vị khất sĩ này có
chừng mười mấy vị khất sĩ khác và
khoảng độ ba bốn mươi người cư
sĩ áo trắng. Cảnh tượng rất đẹp
đẽ.
Phiến đá nằm dưới gốc cây thông lớn x̣e
lá che mát cả một vùng. Vị khất sĩ đang
ngồi thuyết pháp kia tuổi chưa tới bốn
mươi nhưng phong thái của ông đoan nghiêm và sáng
rỡ. Những người ngồi và đứng quanh ông
đang hết sức chăm chú nghe
Vua nghĩ bụng là trong chuyến về ngài sẽ ghé
lại để cùng đàm đạo với vị
khất sĩ ấy.
Bụt ra đón vua ngoài ngơ trúc phía trước tịnh xá và
mời vua vào, Bụt mời vua ngồi, cũng vẫn trên
những chiếc ghế tre như hôm hai người
gặp nhau lần đầu. Sau khi trao đổi
những lời thăm hỏi, vua hỏi Bụt vị
khất sĩ đang thuyết pháp trên phiến đá
dưới gốc thông già là ai. Bụt mỉm cười,
nói:
- Đó là thầy Sunita xuất thân từ giới ngoại
cấp, trước làm nghề đổ thùng. Đại
vương thấy vị khất sĩ ấy thế nào?
Vua giật ḿnh, th́ ra vị khất sĩ có tướng
mạo đoan nghiêm và sáng rỡ kia vốn là người
đổ thùng Sunita. Nếu Bụt không nói th́ vua không
thể nào đoán ra được. Vua c̣n chưa biết
nói ǵ th́ Bụt đă nói:
- Vị khất sĩ Sunita từ ngày xuất gia
đến nay đă tu học rất tinh tiến. Đó là
một con người thẳng thắn, thành thật, thông
minh và có chí nguyện lớn. Mới được tu
học chưa đầy ba tháng mà thầy ấy đă
nổi tiếng là người có đạo hạnh và phong
thái thanh cao. Đại vương có muốn gặp gỡ
và cúng dường cho vị khất sĩ rất xứng
đáng ấy hay không?
Vua thành thật đáp:
- Trẫm rất sẵn sàng gặp gỡ và cúng
dường y áo và thức ăn cho vị khất sĩ
Sunita. Thế Tôn! Giáo pháp của ngài thật là thâm diệu!
Trẫm chưa thấy một vị đạo sư nào
có cái nh́n và tầm tay mở rộng như ngài. Thế Tôn!
Có lẽ không một người nào, một loài nào hay
một vật nào mà không được dự vào giáo pháp
thâm diệu của ngài. Trẫm đă đến đây
vơi một mục đích là hỏi ngài tại sao ngài
lại chấp nhận một người trong giai cấp
hạ tiện vào trong giáo đoàn cao quư của
người, nhưng trẫm đă được
thấy, được nghe, và đă được hiểu.
Trẫm không phải hỏi ngài nữa. Trẫm xin cúi
lạy trước Thế Tôn!
Vua đứng dậy chắp tay định lạy
xuống, Bụt cũng đứng dậy. Người
kéo tay vua mời vua ngồi trở lại trên chơng tre.
Người cũng ngồi lại trên chơng tre. Nh́n vua,
Bụt nói:
- Đại vương! Trong đạo lư giải thoát,
không có sự phân biệt giai cấp mà chúng tính.
Trước con mắt người giác ngộ, tất
cả mọi chúng sinh đều b́nh đẳng. Máu ai cũng
đỏ, nước mắt ai cũng mặn, tất
cả chúng ta đều là con người. Ta phải t́m
cách để mọi người có cơ hội
đồng đều và vươn tới và thực
hiện hoài băo của ḿnh cũng như hoàn thành nhân
phẩm của ḿnh, v́ vậy cho nên tôi đă đón nhận
Sunita vào giáo đoàn khất sĩ.
Vua chắp tay:
- Trẫm đă hiểu, con đường của Thế
Tôn đi là một con đường có nhiều chông gai.
Trẫm biết là trên con đường ấy
người sẽ gặp nhiều khó khăn và trở
ngại, nhưng trẫm cũng biết là người có
đủ hùng lực để vượt qua những
trở ngại đó. Riêng trẫm, trẫm sẽ làm
hết sức ḿnh để yểm trợ cho chánh pháp.
Vua từ giă Bụt, nhưng khi ra đến tảng đá
nằm dưới cội tùng già, vua không thấy vị
khất sĩ và thính chúng của người nữa.
Mọi người đă giải tán, vua chỉ gặp trên
đường những vị khất sĩ đang chậm
răi đi thiền hành.
chương bốn mươi
bốn
Tứ Đại Tan Ră, Rồi
Tứ Đại Lại Kết Hợp
Một hôm Bụt
được thầy Meghiya cho biết là đại đức
Nanda, em cùng cha khác mẹ với Bụt, không cảm
thấy thoải mái và hạnh phúc trong đời sống
xuất gia. Thầy Nanda có tâm sự với thầy là
thầy nhớ người yêu cũ ở thành Kapilavatthu
quá.
“Sư huynh biết không, thầy Nanda nói, tôi c̣n nhớ hôm
tôi cầm b́nh bát theo Bụt đi về tu viện Nigrodha,
công nương Janapada Kalyani đă nh́n tôi và nói: điện
hạ đi mau mà về nhé, em chờ điện hạ.
Tôi nhớ rất rơ mái tóc mượt như nhung
được vắt một phần sau cái vai thon nhỏ
của nàng. H́nh ảnh này hay hiện về với tôi
mỗi khi tôi ngồi thiền, mà mỗi khi h́nh ảnh
đó hiện về là tôi cảm thấy xốn xang và thao
thức; mỗi lúc như thế này tôi thấy tôi không có
hạnh phúc khi sống đời sống xuất gia”.
Chiều ngày hôm sau, Bụt rủ Nanda đi thiền hành
chung với người. Ra khỏi vườn Kỳ
Đà, hai người đi về phía một thôn trang
hẻo lánh, họ đi tới một cái hồ và cùng
ngồi xuống trên một phiến đá bên hồ.
Nước hồ trong vắt, một đàn vịt bơi
lội thảnh thơi dưới hồ. Ở những
lùm cây phía trên, chim chóc ca hát vang lừng, Bụt nói Nanda:
- Các thầy có nói là em không được hạnh phúc trong
đời sống xuất gia, có phải vậy không?
Thầy Nanda im lặng. Một lát sau, Bụt hỏi:
- Hay là em muốn trở về Kapilavatthu tập sự làm
chính trị để sau này thay thế cho phụ
vương?
Nanda vội đáp:
- Không, em đă nói là em không thích làm chính trị. Em biết em
không có khả năng làm chính trị, v́ vậy em cũng
đă nói là em không thích làm vua.
- Vậy tại sao em lại không có hạnh phúc khi sống
đời sống xuất gia?
Nanda lại giữ sự im lặng.
- Hay là em nhớ cô Kalyani?
Thầy Nanda đỏ mặt, nhưng thầy vẫn không
nói ǵ.
Bụt bảo:
- Này Nanda, ở xứ Kosala này cũng có rất nhiều cô
thiếu nữ mà nhan sắc c̣n mặn mà hơn cả cô
Kalyani của em. Em c̣n nhớ hôm dự trai tăng ở
trong cung vua Pasenadi không? Theo em, các cô thiếu nữ tiếp
tân hôm ấy có đẹp bằng Kalyani không?
Nanda tỏ ư không bằng ḷng:
- Có thể là trong số các cô ấy, có nhiều cô
đẹp hơn Kalyani, nhưng mà em chỉ lưu
luyến Kalyani mà thôi. Ở trên đời chỉ có một
Kalyani thôi.
- Nanda, luyến ái là một trong những trở ngại
lớn cho sự tu tập. Sắc đẹp của
phụ nữ cũng chóng tàn như sắc đẹp
của một bông hồng. Em đă biết trên lư thuyết
rằng cuộc đời là vô thường. Em phải
thật sự quán chiếu tự tánh vô thường
của vạn vật. Này em nh́n xem.
Theo ngón tay Bụt, Nanda nh́n lên th́ thấy một bà lăo
đang chống gậy đi qua ngơ trúc. Bà lăo c̣n mạnh
khỏe, nhưng da trên mặt bà đă nhăn nhúm lại.
- Bà già này hồi trẻ chắc chắn là người có
nhan sắc. Nhan sắc Kalyani rồi cũng sẽ tàn
tạ trong ṿng vài mươi năm. Trong khi đó sự
nghiệp giác ngộ của em có thể đem lại ánh
sáng và an lạc từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nanda, em hăy nh́n lên đôi khỉ đang đong
đưa trên cành cây kia. Em hăy để ư tới con khỉ
cái, em có thể nghĩ rằng với một cái miệng
nhọn như thế và một cái đít đỏ như
thế, con khỉ đó không đẹp đẽ ǵ,
nhưng đối với con khỉ đực ngồi
một bên th́ đó là một con khỉ cái đẹp
nhất trên đời. Đối với nó, con khỉ cái
là độc nhất, và nó có thể sẵn sàng để
chết v́ con khỉ cái kia. Em có biết rằng ...
Nanda ngắt lời Bụt:
- Thôi xin Bụt đừng nói nữa. Em đă hiểu
rồi, em hứa từ nay sẽ tinh tiến tu học.
- Vậy th́ tốt lắm, em phải thực tập
trở lại phép quán niệm hơi thở cho chuyên
cần mỗi ngày, rồi em sẽ tập quán chiếu thân
thể, quán chiếu cảm giác, quán chiếu tâm ư và
cuối cùng quán chiếu các pháp. Các pháp chính là đối
tượng của tâm ư. Phải quán chiếu để
thấy cho được quá tŕnh sinh khởi, tồn
tại và hoại diệt của mọi hiện
tượng, từ thân thể qua cảm giác đến tâm
tư và các pháp. Có ǵ không hiểu em có thể đến
hỏi lại ta, hoặc nếu ta không có đó th́ em có
thể hỏi thầy Sariputta. Nanda! Nên nhớ rằng
hạnh phúc của giải thoát mới là thứ hạnh
phúc chân thật, không tùy thuộc vào điều kiện,
không bao giờ bị tàn hoại. Em phải đạt cho
được thứ hạnh phúc ấy.
Trời đă chiều, Bụt đứng dậy, và
đưa thầy Nanda về tu viện.
Tu viện Jetavana đă tạo được nền
nếp tu học vững chăi. Số lượng các
thầy khất sĩ ở lại tu học đă lên
tới năm trăm vị.
Mùa mưa năm sau, Bụt về an cư tại Vesali.
Địa điểm an cư là Rừng Lớn, nơi
ấy có một ṭa giảng đường hai tầng có
nóc nhọn gọi là giảng đường Kutagara và
một số các tăng đường rải rác trong
rừng.
Tất cả những ngôi nhà này đều đă
được các vương tử trong bộ tộc
Licchavi vận động xây cất trong năm vừa qua
để làm chỗ tu học cho Bụt và các vị
khất sĩ. Hầu hết cây trong rừng đều là
cây sala. Mùa an cư năm nay, các vương tử Licchavi là
những người đứng ra bảo trợ. Ambapali
đă rất sốt sắng đóng góp phần ḿnh vào
việc xây cất và bảo trợ khóa tu. Nhiều vị
khất sĩ hành đạo rải rác trong vương
quốc Magadha và cả ở vương quốc Sakya nghe
Bụt về an cư tại giảng đường Trùng
Các cũng đă t́m về kịp thời để
được cùng an cư với Bụt. Số
lượng các vị khất sĩ an cư năm nay lên
tới sáu trăm vị.
Từ vương quốc Magdha, nhiều vị nhân sĩ
và cư sĩ nghe nói Bụt an cư tại đây cũng
đă t́m tới để được thân cận và
học hỏi trong ba tháng với Bụt. Họ t́m chỗ
cư trú trong đô thị Vesali để thỉnh
thoảng có thể vào tu viện Trùng Các để cúng
dường và nghe pháp.
Một buổi sáng đầu thu khi mùa an cư vừa
chấm dứt, có tin từ Kapilavatthu báo về là quốc
Gia đ́nh hoàng gia đón Bụt ngay ở cổng hoàng cung.
Lệnh bà Mahapajapati đưa Bụt ngay vào tâm
điện. Thầy Bụt, vua tươi tỉnh hẳn
lên. Ngồi bên giường ngự, Bụt đưa hai
tay ra nắm lấy bàn tay vua. Vua đă già yếu: năm nay
ngài đă tám mươi hai tuổi. Bụt nói:
- Phụ vương hăy thở thật nhẹ, thật dài
và mỉm cười. Không có ǵ quan trọng cho bằng
hơi thở của phụ vương lúc này. Nanda, Rahula,
Anuruddha và con cũng thở theo phụ vương.
Vua nh́n Bụt, nh́n Nanda, nh́n Rahula, nh́n Ananda, nh́n hoàng hậu
Gotami, nh́n công nương Yasodhara. Ngài mỉm cười,
rồi ngài thở theo lời Bụt dạy. Không ai dám khóc
lóc trong lúc này. Ai cũng nghe lời Bụt, theo dơi hơi
thở của ḿnh. Một lát sau, vua nh́n Bụt nói:
- Bây giờ ta thấy được rơ ràng cuộc
đời là vô thường, và con người muốn có
hạnh phúc, th́ không nên tham đắm vào ṿng ái dục.
Hạnh phúc là một cuộc sống thanh thản, b́nh
dị và có tự do.
Hoàng hậu Gotami nói với Bụt:
- Mấy tháng nay, hoàng thượng sống rất thanh
thản. Ngài đă thật sự làm theo lời Bụt
dạy. Thế Tôn! Những lời Bụt dạy đă
chyển hóa được nếp sống của nhiều
người ở đây. Hoàng thượng là một trong
những người đă được thấm
nhuần nhiều nhất lời giáo huấn của
Bụt.
Vẫn cầm tay vua trong tay ḿnh, Bụt khai thị:
- Phụ vương hăy nh́n con, nh́n Nanda, nh́n Rahula. Phụ
vương hăy nh́n cấy cối màu xanh qua các cửa
sổ. Sự sống c̣n tiếp tục. Sự sống
vẫn c̣n th́ phụ vương vẫn c̣n. Phụ
vương vẫn c̣n tiếp tục sống trong con, trong
Nanda, trong Rahula, trong tất cả mọi loài. Sắc thân
hiện thời là do tứ đại kết hợp.
Tứ đại tan ră rồi kết hợp hoài hoài.
Phụ vương đừng có v́ sự tan ră của
một thân tứ đại mà nghĩ rằng sự
sống chết có thể ràng buộc được ta.
Sắc thân của Rahula đây cũng là sắc thân của
phụ vương vậy.
Bụt ra hiệu cho Rahula lại gần và bảo Rahula
nắm lấy tay của ông nội trong hai tay ḿnh. Một
nụ cười rất tươi nở trên môi của
vị quốc vương sắp băng hà. Vua đă
hiểu được lời nói của Bụt. Vua có
vẻ không c̣n sợ sự sống chết nữa.
Bên giường ngự lúc đó, các vị cận thần
cũng đều có mặt.
Một lúc sau, vua ra hiệu cho các vị cận thần
lại gần. Vua nói với họ:
- Các khanh, có thể là trong thời gian cùng làm việc
nước, trẫm đă có làm những điều
lầm lỗi khiến các khanh phiền ḷng. Trước
khi nhắm mắt, trẫm muốn các khanh tha thứ cho
trẫm.
Giọng vua yếu ớt, các quan đều khóc. Hoàng thân
Mahanama, quỳ xuống bên gối, tâu:
- Tâu bệ hạ, bệ hạ là một ông vua có
đức khoan dung và công b́nh lớn nhất trên
đời. Các quan trong triều không ai có ḷng oán trách bệ
hạ.
Vua nói:
- Nhân có đủ mọi người ở đây, xin
Bụt và các quan sắp xếp việc cử người
thay thế cho trẫm để trị nước.
Trẫm tin nơi sự sáng suốt của Bụt và
của mọi người.
Mahanama tâu:
- Thần xin đề nghị hoàng thái tử Nanda cởi
bỏ áo tu, lên ngôi và chấp chính. Đó là giải pháp
đẹp đẽ nhất theo thần. Trăm họ
sẽ được an ḷng khi chính thái tử đông cung
đảm trách nhiệm này. Riêng thần, thần sẽ
đem hết cuộc đời của thần để
phụ tá hết ḷng cho thái tử.
Đại đức Nanda nh́n về phía Bụt cầu
cứu. Hoàng hậu Gotami cũng nh́n về phía Bụt.
Bụt lặng lẽ nói:
- Nếu phụ vương, các quan và mọi người
muốn tôi phát biểu ư kiến th́ tôi xin nói thế này. Em
Nanda không có khiếu về chính trị và không muốn làm
chính trị. Em c̣n phải tu học nhiều thêm mới có
đủ các đức kiên tŕ và dũng cảm. Rahula th́
c̣n bé quá, năm nay cháu mới có mười lăm tuổi.
Tôi thấy hoàng thân Mahanama hiện là người xứng
đáng nhất để lên ngôi cửu ngũ. Ai cũng
biết hoàng thân là một người có chí khí lớn. Hoàng
thân lại là một người có ḷng từ bi, có
nhiều hiểu biết và có nhiều kinh nghiệm về
chính sự. Hoàng thân đă làm phụ tá cho phụ
vương trên sáu năm rồi. Tôi nghĩ là hoàng thân nên v́
hoàng gia và v́ dân tộc mà đứng ra lănh trách nhiệm khó
khăn và nặng nề này.
Mahanama chắp tay thối thác:
- Con sợ tài đức kém cơi không cáng đáng nổi
việc lớn. Xin hoàng thượng, xin Bụt và các
vị cận thần xét lại mà cử người
xứng đáng hơn.
Một vài vị đại thần đứng lên phát
biếu ư kiến. Người nào cũng tán đồng
đề nghị của Bụt, cho đó là một
đề nghị thiết thực và thông minh. Cuối cùng
tất cả các quan đều một ḷng một dạ
thỉnh cầu hoàng thân Mahanama đứng lên chấp chính.
Vua gật đầu, ngài gọi Mahanama tới bên
giường ngự. Cầm tay Mahanama, vua nói:
- Các quan đă tín nhiệm khanh, Bụt cũng tín nhiệm
khanh, khanh là con cháu của trẫm. Trẫm rất sung
sướng được khanh chấp nhận trách
vụ nối tiếp trẫm để mà an ḷng trăm
họ.
Mahanama phủ phục lạy xuống để vâng
mệnh.
Vua hoan hỷ nh́n mọi người:
- Trẫm rất an ḷng mà nhắm mắt. Trẫm rất
vui được gặp Bụt trước khi từ giă
cơi đời. Ḷng trẫm thanh thản lắm, trẫm
không luyến tiếc ǵ, cũng không ân hận ǵ, trẫm
mong Bụt để tâm nâng đỡ cho Mahanama và
hướng dẫn cho Mahanama trong những bước
đầu. Đạo đức của Bụt sẽ
khiến cho đất nước và trăm họ an lành.
Giọng của vua càng lúc càng yếu. Bụt ngồi
xuống gần bên giường ngự. Người
cầm tay vua:
- Con xin hứa là sẽ nâng đỡ cho Mahanama. Xin phụ
vương yên ḷng. Con sẽ ở lại dây một
thời gian, cho đến khi nào mọi việc
được an bài và t́nh thế hoàn toàn ổn
định.
Vua mỉm cười yếu ớt, nhưng vẻ mặt
của ngài an ḥa và măn nguyện. Rồi ngài nhắm mắt
qua đời.
Hoàng hậu Gotami là công nương Yasodhara khóc lên thành
tiếng. Các quan cũng khóc rống lên. Bụt vuốt
mắt cho vua, đặt hai tay vua lại cho ngay ngắn và
đứng dậy. Người ra hiệu cho mọi
người nín khóc, và bảo mọi người theo dơi
hơi thở để hộ niệm cho vua. Cuối cùng,
người đề nghị mọi người ra
hội ư với nhau ở pḥng ngoài về việc tổ
chức tang lễ.
Lễ trà tỳ của quốc
Bụt đứng lên đi ba ṿng quanh hỏa đàn
rồi tự tay châm lửa cho hỏa đàn. Trước
khi châm lửa, người nói:
- Sinh, già, bệnh và chết là những ǵ phải xảy
đến cho tất cả mọi người. Chúng ta
phải nghĩ đến sinh, già, bệnh và chết trong
đời sống hàng ngày để đừng bị ch́m
đắm trong dục vọng, để sống an
lạc, thảnh thơi và làm cho cuộc đời chung
quanh bớt khổ. Sinh, già, bệnh và chết cũng là lư
thường nhiên. Người đạt đạo có
thể đạt tới trạng thái thản nhiên
trước sinh, già, bệnh,và chết.
Trong tự tính của vạn pháp, không có ǵ sinh, không có ǵ
diệt, không có ǵ c̣n, không có ǵ mất, không có ǵ thêm, không có
ǵ bớt.
Hỏa đàn bốc cháy phần phật. Có tiếng chiêng
tiếng trống ḥa lẫn với tiếng tụng kinh
trầm bỗng. Dân chúng Kapilavatthu tới lễ trà tỳ
rất đông. Họ biết hôm nay chính Bụt sẽ châm
lửa cho hỏa đàn.
Sau lễ đăng quang của Mahnama, Bụt c̣n ở
lại giáo hóa một thời gian ba tháng tại Kapilavatthu.
Một hôm, thái hậu Mahapajapati Gotami đến tu viện
Nigrodha viếng Bụt để cúng dường mấy
chiếc ca sa và cầu xin được xuất gia
để làm một vị nữ khất sĩ.
Bà nói:
- Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn cho phép phái nữ
được đi xuất gia th́ trong thiên hạ sẽ
có những kẻ được thừa hưởng ân
huệ từ bi của người lắm. Thế Tôn,
trong hàng vương tử có nhiều vị đă đi
xuất gia theo học với Bụt. Trong số đó, có
vị đă từng có gia đ́nh, phu nhân của các vị
cũng rất ước ao được học theo giáo
pháp của Bụt với tư cách của những
người xuất gia. Tôi cũng muốn xin Thế Tôn cho
tôi được xuất gia. Đó là niềm vui lớn
nhất mà tôi mong mỏi, sau khi thượng hoàng đă
từ bỏ cuộc đời.
Bụt lặng thinh, một lát sau, người nói:
- Không được đâu, lệnh bà Gotami.
Bà Pajapati cầu khẩn:
- Tôi biết đây là một điều khó cho đức
Thế Tôn, Thế Tôn chấp thuận cho người
nữ xuất gia th́ thế nào cũng có sự chống
đối trong xă hội, nhưng tôi nghĩ là Bụt sẽ
không e ngại ǵ sự chống đối đó.
Bụt lại lặng thinh, rồi người nói:
- Tại Rajagala cũng đă có những người
phụ nữ muốn xin xuất gia, nhung con nói rằng
chưa đến lúc. Con thấy hiện chưa có
đủ điều kiện để nhận cho
người nữ xuất gia.
Ba lần thỉnh cầu, ba lần Bụt không chấp
thuận. Hoàng hậu Gotami buồn bă giă từ Bụt. Bà
trở về cung và than thở với lệnh bà Yasodhara.
Mấy hôm sau, Bụt lên đường trở về
Vesali. Tới Vesali, người cư trú tại tu viện
Trùng Các.
Trong khi đó, bà Gotami đi tập hợp những
người phụ nữ có ư chí xuất gia lại, trong
đó có cả những thanh nữ muốn theo gương
nam giới đi xuất gia. Những thiếu nữ này
chưa từng lập gia đ́nh. Hầu hết
đều thuộc về bộ tộc Sakya. Bà Gotami nói
với họ:
- Tôi biết chắc rằng trong tinh thần đạo
pháp tỉnh thức, mọi người đều b́nh
đẳng, bởi v́ ai cũng có khả năng giác
ngộ và giải thoát. Chính Bụt đă nói điều này.
Người đă nhận vào giáo đoàn cao quư những
người thuộc giai cấp hạ tiện, th́ không có
lư nào người lại kỳ thị phái nữ.
Người nữ cũng là người, người nữ
cũng có thể đạt tới giác ngộ và giải
thoát. Vậy th́ không có lư do ǵ mà chúng ta lại không
được đối xử b́nh đẳng, tôi
đề nghị là chúng ta nên tự ư xuống tóc, cởi
bỏ mọi đồ trang sức và khoác y vàng lên
người. Rồi chúng ta cũng bỏ hết guốc
dép và đi bộ về thành Vesali để xin
được xuất gia. Trước hết chúng ta
phải chứng tỏ quyết tâm của chúng ta, và sau
đó chúng ta phải chứng tỏ khả năng của
chúng ta. Chúng ta phải chứng tỏ cho Bụt và mọi
người thấy rằng chúng ta cũng có thể từ
bỏ xa hoa, sống đời đơn giản của
kẻ không nhà không cửa, có thể đi chân đất
hàng trăm dặm và có thể đi xin ăn mà sống.
Nếu không làm như vậy được th́ không bao
giờ chúng ta hy vọng có thể được chấp
nhận và giáo đoàn. Muốn được chấp
nhận, chúng ta phải được công nhận
trước đă.
Mọi người trong cuộc họp đều phấn
khởi khi nghe bà Gotami nói. Họ thấy nơi bà một
vị lănh đạo thực sự của phái nữ.
Yasodhara cũng có mặt trong buổi họp. Bà mỉm
cười, đă từ lâu, bà biết tính khí của thái
hậu Gotami. Thái hậu Gotami là người không thối
tâm bất cứ trước một trở lực nào.
Những năm cùng làm việc với bà để giúp cho
kẻ nghèo đói, Yasodhara đă thấy rơ điều
đó.
Tất cả mọi người trong buổi họp
đă quyết định làm theo đề nghị của
lệnh bà Gotami. Họ hẹn ngày giờ hành động.
Bà Gotami nói với Yasodhara :
- Gopa, con hăy thong thả, đừng đi theo ta trong
chuyến này, không có con kỳ này, t́nh trạng có thể ít
khó khăn hơn, chừng nào ta thành công con sẽ đi theo
sau cũng không muộn.
Gopa hội ư, bà mỉm cười nh́n hoàng hậu.
chương bốn mươi
lăm
Cánh Cửa Phương Tiện
Một buổi
sáng khi đi ra hồ lấy nước, đại
đức Ananda gặp lệnh bà Gotami và khoảng năm
mươi người phụ nữ đứng phía bên
ngoài tịnh xá của Bụt, người nào cũng đă
xuống tóc, người nào cũng khoác y vàng, và bàn chân
người nào cũng sưng vù và chảy máu. Ban
đầu, thầy tưởng đó là một nhóm
khất sĩ, nhưng nh́n kỹ lại thầy mới
biết là không phải. Ngạc nhiên đến cực
độ, thầy tới hỏi bà Gotami:
- Trời ơi, lệnh bà đi đâu mà mới sáng tinh
sương đă thấy đứng ở đây, chân
cẳng tại sao sung trầy và chảy máu? và
c̣n các công nương nữa ...
Bà Gotami nói:
- Đại đức Ananda, chúng tôi đă xuống tóc,
đă bỏ hết đồ trang sức, đă từ
bỏ hết mọi tiện nghi vật chất trong
cuộc đời. Chúng tôi đă đi bộ từ
Kapilavatthu tới đây, từ hơn mười lăm hôm
nay và đă xin ăn dọc đường. Chúng tôi
muốn chứng tỏ rằng chúng tôi cũng có khả
năng sống đời sống của người
xuất gia được. Đại đức Ananda, xin
đại đức bạch dùm với Bụt cách nào
để chị em chúng tôi được chấp nhận
vào giới xuất gia.
Ananda nói:
- Lệnh bà và các công nương hăy cứ đứng
chờ đây. Tôi sẽ vào thưa ngay với Bụt. Tôi
hứa sẽ làm hết sức của tôi.
Đại đức vào trong tịnh xá khi Bụt mới
thay áo xong.
Đại đức Nagita hiện là thị giả
của người cũng có mặt trong tịnh thất.
Thầy bạch với Bụt những điều mà
thầy vừa trông thấy và nghe thấy. Bụt im
lặng. Một hồi sau, thầy hỏi Bụt:
- Thế Tôn, người nữ xuất gia và tu hành theo chính
pháp th́ có thể chứng ngộ được những
quả vị như Nhập Lưu, Nhất Hoàn, Bất
Hoàn hay A
Bụt nói:
- Được chứ.
- Vậy th́ tại sao Bụt không cho người nữ
xuất gia? Thế Tôn, lệnh bà Gotami là người đă
chăm sóc và nuôi nấng Bụt ngay từ khi Bụt
mới sinh ra, và thương yêu Bụt không khác ǵ một người
mẹ đẻ. Lệnh bà đă xuống tóc, đă
cởi bỏ hết mọi trang sức, đă đi chân
đất từ thành Kapilavatthu về tới đây.
Lệnh bà muốn chứng tỏ rằng những ǵ
đàn ông làm được th́ người đàn bà
cũng có thể làm được. Xin Bụt từ bi cho
lệnh bà được xuất gia trong giáo pháp của
người.
Bụt lặng thinh, một lát sau, người bảo
thầy Nagita đi t́m các đại đức Sariputta,
Moggallana, Anuruddha, Bhaddiya, Kimbala, và Mahakassapa và mời họ
đến cho người thỉnh ư.
Bụt và các vị đệ tử phụ tá hội ư khá
lâu. Bụt nói Bụt không kỳ thị người
nữ, nhưng người chưa nghĩ ra
được cách thức chấp nhận những nữ
vào trong giáo đoàn mà không tạo ra những trở ngại
trong nội bộ cũng như từ bên ngoài.
Sau một hồi trao đổi ư kiến, đại
đức Sariputta nói:
- Lệnh bà Gotami lâu nay là một người có quyền
hành và ảnh hưởng rất lớn trong hoàng tộc
cũng như ngoài xă hội, theo như lời đại
đức Bhaddhiya đă nói. Nếu ta không có một pháp
chế quy định sự phân biệt nam nữ và
quyền hạn cho rơ rệt th́ sau này có thể có những
rắc rối xảy ra. Ta cần có một pháp chế như
thế. Pháp chế này đồng thời cũng là
để giảm thiểu những phản ứng bên ngoài
của một xă hội đă ngàn đời có tính cách
trọng nam khinh nữ. Tôi đề nghị một pháp
chế tám điểm như sau:
* Thứ nhất, một vị nữ khất sĩ
-bhikkhuni- phải luôn luôn cung kính chào hỏi một vị
nam khất sĩ -bhikkhu- dù vị nữ khất sĩ này
tuổi đời lớn hơn và tuổi tu cũng
lớn hơn vị nam khất sĩ.
* Thứ hai, các vị nữ khất sĩ phải t́m
về an cư mỗi năm ở những trung tâm nào có
đoàn thể nam khất sĩ để nương
tựa và học hỏi.
* Thứ ba, cứ mỗi tháng hai kỳ, giới nữ
khất sĩ phải cử người đi thỉnh
chúng nam khất sĩ chỉ định ngày bố tát
uposatha và cử người đến thăm viếng,
giáo huấn và khích lệ việc tu học của nữ
chúng.
* Thứ tư, vào ngày kết thúc mùa an cư, vị nữ
khất sĩ phải dự lễ tự tứ và cầu
chỉ giáo về sự tu học của ḿnh, không những
ở trung tâm nữ khất sĩ của ḿnh mà c̣n ở
trung tâm của vị nam khất sĩ nữa.
* Thứ năm, khi phạm giới, vị nữ khất
sĩ phải sám hối trước cả hai chúng nam và
nữ.
* Thứ sáu, những người nữ, sau thời gian
tập sự xuất gia, phải cầu xuất gia
thọ đại giới trước cả hai chúng nam và
nữ.
* Thứ bảy, một vị nữ khất sĩ không
được nói hành và chỉ trích một vị nam
khất sĩ.
* Thứ tám, vị nữ khất sĩ không
được phép giảng dạy cho đoàn thể các
vị nam khất sĩ.
Đại đức Moggallana cười:
- Tám điều này rơ rệt là có kỳ thị
người nữ rồi, sao lại nói là không kỳ
thị?
Đại đức Sariputta đáp:
- Tám điều này được đưa ra với
mục đích chính là mở được cửa cho
giới phụ nữ đi vào giáo đoàn. Mục đích
của nó không phải là kỳ thị, mà là chấm dứt
sự kỳ thị. Điều cốt yếu là
người phụ nữ được xuất gia,
sư huynh không thấy điều đó sao?
Đại đức Moggallana mỉm cười gật
đầu, tỏ vẻ thông cảm sâu xa với bạn.
Đại đức Bhaddhiya góp ư:
- Tôi thấy pháp chế “Bát kính” rất cần thiết.
Lệnh bà Gotami là một người có quyền hành
lớn, lại là mẹ của đức Thế Tôn.
Nếu không có pháp chế “Bát kính” th́ bà sẽ không thấy
được ranh giới quyền hạn của bà, và
sẽ không có ai có khả năng điều chỉnh bà
ngoài Bụt.
Bụt bảo Ananda:
- Ananda, thầy hăy ra bảo cho lệnh bà Mahapajapati biết
tin này. Thầy nói rằng nếu lệnh bà chấp
nhận tám điều gọi là “Bát Kính Pháp” vừa nói th́
lệnh bà sẽ được phép xuất gia.
Lúc Ananda ra th́ mặt trời đă lên tới đỉnh
đầu, nhưng bà Goatmi và các vị công nương
vẫn c̣n đứng chờ ngoài ngơ. Sau khi nghe nội dung
“Bát Kính Pháp”, bà Gotami nói:
- Đại đức Ananda, xin đại đức
bạch với đức Thế Tôn rằng, khi một cô
gái xinh đẹp và trẻ trung mới tắm và gội
đầu bằng nước thơm, mà sẵn có
người ta đem tới cho vành hoa kết bằng hoa
sen hoặc bằng hoa hồng thơm ngát, th́ cô gái sẽ
sung sướng đưa hai tay đón nhận và
để trên đầu ḿnh; cũng như thế, tôi
rất sung sướng chấp nhận pháp chế “tám
sự cung kính” và hành tŕ theo suốt đời, nêu tôi
được phép xuất gia.
Đại đức Ananda hoan hỷ vào báo tin này với
Bụt. Trong số các vị công nương đi theo, có
người nh́n đức bà Gotami có ư như ḍ hỏi. Bà
mỉm cười nói:
- Các em đừng e ngại, điều quan trọng
nhất là chúng ta được xuất gia làm nữ
khất sĩ. Những điều trong “Bát Kính Pháp” không
phải là những trở ngại cho sự tu học
của chúng ta, mà chính là cửa ngơ để chúng ta đi
vào.
Năm mươi mốt người nữ
được làm lễ xuất gia ngay trong ngày hôm đó.
Đại đức Sariputta sắp đặt để
các vị này có ngay một trung tâm tạm cư. Nữ
cư sĩ Ambapali vui ḷng để cho các vị nữ
khất sĩ được sử dụng vườn
Xoài của bà để làm chốn tu học. Đại
đức Sariputta cũng được Bụt ủy thác
việc dạy các vị nữ khất sĩ những phép
tắc hành tŕ sơ đẳng của đời sống
xuất gia.
Sau đó tám hôm, nữ khất sĩ Mahapajapati tới xin
tham vấn Bụt, bà thưa:
- Thế Tôn, xin người từ bi dạy cho tôi vắn
tắt cách hành tŕ để tôi có thể tiến mau trên
đường giải thoát.
Bụt nói:
- Nữ khất sĩ Mahapajapati! Điều quan yếu
nhất là phải nắm lấy tâm ư của ḿnh. Phải
học phương pháp theo dơi hơi thở và quán niệm
về bốn lănh vực thân thể, cảm thọ tâm ư và đối
tượng tâm ư. Quán niệm như thế nào để
càng ngày càng thấy phát triển nơi ḿnh các đức
khiêm nhường, thanh thản, buông bỏ, thanh bần và
an lạc. Khi những phẩm chất ấy của tâm ư
được phát triển, ḿnh có thể an tâm là ḿnh
đang đi trên con đường chánh pháp, con
đường tỉnh thức và giác ngộ.
Nữ khất sĩ Mahapajapati rất hoan hỷ, bà từ
giă Bụt và trở về với các vị nữ khất
sĩ đồng tu. Bà dự tính sẽ thiết lập
một trung tâm tu học cho ni chúng ngay tại Vesali này
để có thể được gần gũi và học
hỏi với Bụt và với các vị đệ tử
lớn của người, ít nhất là trong thời gian
Bụt c̣n lưu trú tại đây. Bà lại có ư nguyện
trở về Kapilavatthu để mở một trung tâm tu
học cho ni chúng ngay tại quê hương ḿnh.
Ngay hôm đó, bà nhờ người về báo tin mừng cho
công nương Yasodhara tại Kapilavatthu, Bà biết rằng
tin nữ giới được chấp thuận vào giáo
đoàn khất sĩ sẽ nổ tung ra như một
tiếng sét và sẽ có rất nhiều phản ứng trong
xă hội. Người ta sẽ kên án và công kích Bụt cùng
giáo đoàn. Bụt và giáo đoàn sẽ gặp những khó
khăn không thể nào lường trước
được. Nghĩ đến đó, bà thấy một
niềm biết ơn tràn ngập tâm tưởng bà. Bà
thấy rơ pháp chế “Bát Kính” không phải là những
điều kỳ thị nữ giới mà lại là
những phương tiện bảo vệ và che chở cho
giáo đoàn trong đó có nữ giới. Bà tin rằng trong
tương lai, khi sự kiện nữ giới
được xuất gia đă trở nên một sự
thực rồi th́ pháp chế “Bát Kính” sẽ không c̣n cần
thiết nữa.
Từ hôm có ni chúng, giáo đoàn của Bụt bắt
đầu được gọi là một giáo đoàn
bốn chúng: chúng nam khất sĩ, (bikkhu), chúng nữ
khất sĩ (bikkhuni), giới nam cư sĩ (upasaka) và
giới nữ cư sĩ (upasika).
Ni trưởng Mahapajapati đă suy nghĩ kỹ về cách
phục sức của giới nữ khất sĩ. Bà
đă tŕnh với Bụt ư kiến của ḿnh và đă
được Bụt chấp thuận. Các vị nam
khất sĩ thường chỉ vận ba thứ:
một tấm antaravasaka, gọi là an đà hội, là
quần dưới, một tấm uttarasanga, gọi là
uất đa la tăng, là áo mặc bên trên và một tấm
sanghati, gọi là tăng già lê, là chiếc áo khoác bên ngoài. Các
vị nữ khất sĩ, ngoài ba tấm ấy, c̣n
được phép vận thêm hai tấm khác: một là samkaksika,
dùng để thắt ngang hông và hai là kusulaka, dùng như
một chiếc váy.
Ngoài y và bát, các vị khất sĩ và nữ khất sĩ
có quyền làm sở hữu chủ của một cái
quạt để che đầu khi trời nắng,
một chiếc lọc nước uống, một cây kim
và một ít chỉ để khâu vá lại xiêm y, một cái
tăm xỉa răng, và một chiếc dao cạo
để cạo tóc và râu, mỗi tháng hai lần.