Thích Nhất Hạnh
Đường
Xưa Mây Trắng
chương năm mươi
Một Vóc Cám Rang
Mùa an
cư năm sau, Bụt cư trú ở Vejanra. Khóa an cư
năm đó có tất cả là năm trăm thầy tham
dự. Hai đại đức lớn là Sariputta và
Moggallana làm phụ tá cho Bụt trong khóa an cư này.
Vào giữa mùa an cư, trời rất nóng, không muốn
ở trong tịnh xá của người nữa, suốt
ngày Bụt ra ngồi dưới cây nimba cành lá xanh tốt
che mát cả một vùng. Bụt thọ trai, nói pháp
thoại, ngồi thiền và trải chiếu nằm
ngủ ngay dưới gốc cây này. Vào tháng thứ ba
của mùa an cư, các vị khất sĩ than thở
với nhau là thức ăn xin được mỗi ngày
càng lúc càng hiếm. Có nhiều thầy đi khất
thực về với chiếc bát không.
Hỏi thăm, Bụt biết rằng năm nay ở
đây mất mùa, và kho lúa dự trữ của chính
quyền địa phương sắp cạn. Dân chúng
địa phương đói và chính quyền phải phát
thẻ cứu trợ thực phẩm. Dân chúng không có ăn
th́ làm ǵ có để cúng dường. Số lượng
năm trăm vị khất sĩ là một số
lượng lớn quá, chính Bụt cũng có hôm phải
mang bát không về. Có nhiều hôm người chỉ
sống bằng nước trong và hơi thở. Nhiều
vị khất sĩ thiếu ăn ốm đi trông
thấy. Đại đức Moggallana đề nghị
với Bụt là giáo đoàn nên di cư về Uttarakuru
ở miền Nam để tiếp tục mùa an cư v́
ở đó không có nạn đói.
Bụt không chấp nhận. Người nói:
- Không nên làm thế, Moggallana. Có phải chỉ có một
ḿnh ḿnh đói mà thôi đâu. Cả dân chúng đều
đói, chỉ trừ những nhà giàu, nếu ta v́ đói mà
bỏ đi th́ ta không chia xẻ được những
khó khăn và thông cảm được với dân chúng
ở đây. Moggallana, chúng ta nên ở lại đây cho
đến hết mùa an cư.
Người thỉnh Bụt về Vejanra an cư là một
thí chủ Bà-la-môn giàu có đă từng được nghe
Bụt thuyết pháp, tên là Agnidatta, nhưng ông này bận
rộn với việc đi đây đi đó để
buôn bán cho nên không thấy được t́nh trạng
của giáo đoàn. Một hôm đại đức
Moggallana chỉ cho Bụt thấy một vùng cây cỏ xanh
tươi gần nơi trung tâm tu học và thưa với
Bụt:
- Lạy thầy, con nghĩ là nếu cây cối xanh tốt
như vậy là v́ ở dưới đất có nhiều
chất dinh dưỡng. Con xin đề nghị là chúng ta
lật đất lên, lấy phần đất mềm và
bổ dưỡng ở dưới, ḥa tan trong
nước và uống lấy nước ấy cho có
chất bổ dưỡng.
Bụt đáp:
- Không nên làm như thế, Moggallana. Hồi tu ở núi
Dangsitri, tôi cũng đă có làm như thế mà không thấy
có công hiệu ǵ. Với lại có bao nhiêu sinh vật
đang sống b́nh an dưới mặt đất, không
bị sức nóng và ánh sáng mặt trời làm khô chết.
Nếu ta lật đất lại th́ biết bao nhiêu loài
sẽ bị hy sinh, trong đó kể cả các loại cây
cỏ đang tốt tươi.
Nghe Bụt nói thế, thầy Mogallana im lặng không dám nói
nữa.
Theo thường lệ th́ khi đi khất thực về,
các thầy chia bớt phần ḿnh xin được vào
những chiếc chậu đặt ở giữa trai
đường để những vị nào không xin
được có thể đến lấy, nhưng cả
mươi hôm nay chẳng có hôm nào Svastika thấy
được một chiếc bánh chapati hay một hạt
cơm trong các chậu đó. Lư do là nếu thầy nào xin
được một ít thức ăn th́ thức ăn
ấy cũng không đủ cho thầy ấy sử
dụng, nói ǵ đến chuyện chia xẻ. Rahula có tâm
sự với Svastika là khi đi khất thực về, các
thầy lớn có cơ hội được cúng
dường hơn là các thầy nhỏ. Svastika cũng
đồng ư như vậy. Svastika nói với bạn:
- Không hiểu tại sao độ rày vừa thọ trai
xong th́ một lát sau đă thấy đói. Từ
trước đến giờ có bao giờ chú thấy
như thế không?
Rahula công nhận Svastika nói đúng. Chú nghĩ có lẽ
thời buổi đói kém nó sinh ra như vậy. Rahula
đang vào tuổi lớn. Ăn đủ mà nhiều
đêm c̣n thấy đói, huống hồ bây giờ có ngày
chẳng có hạt cơm hay một trái ổi để vào
trong bụng.
Một hôm, sau khi đi khất thực về, đại
đức Ananda đi kiếm một cái om đất,
rồi bắc om lên trên một cái bếp ngoài trời. Cái
bếp được dựng bằng ba cục đá.
Đại đức nhặt các cành củi khô và loay hoay
nhóm lửa.
Thấy lạ, chú Svastika tới gần. Chú nói:
- Thầy để con nhúm bếp cho.
Svastika nhúm bếp tài hơn thầy Ananda nhiều. Trong
chốc lát, lửa đă cháy bùng lên. Đại đức
Ananda trịnh trọng lấy bát ra. Trong bát có một
thứ ǵ giống như mạt cưa. Thầy đổ
tất cả vào trong chiếc om đất. Thầy nói
với Svastika:
- Đây là cám. Chúng ta rang cám này cho thơm rồi đem dâng
cho Bụt thay cơm trưa.
Trong khi Svastika dùng hai que củi nhỏ để trộn
cám trong nồi rang, đại đức Ananda kể cho chú
nghe rằng có một người lái buôn ngựa từ
miền Bắc xuống đem theo năm trăm con
ngựa. Hiện ông ta đang ở Vejanra. Ông ta đă có
dịp làm quen với các vị khất sĩ áo vàng, ông ta
biết về t́nh trạng đói kém ở đây và
biết rằng các vị khất sĩ cũng đang
đói.
Sáng hôm nay, ông gặp đại đức Ananda ở
cổng chuồng ngựa. Ông ta nhắn với đại
đức là hôm nào không xin được thức ăn
cúng dường, các vị có thể ghé chuồng ngựa và
mỗi vị sẽ nhận lănh vào bát một vóc cám
để ăn chỡ đói. Nghe nói thế, đại
đức Ananda liền ngơ ư là ông có thể cúng
dường cho Bụt và cho thầy hai phần cám
để ăn cho đỡ đói, bởi v́ hôm nay
chưa có ai đặt thức ăn vào bát thầy.
Ngựi chủ ngựa đưa thầy vào và vốc hai
vốc cám cúng dường, một vốc cho Bụt và
một vốc cho thầy. Thầy hứa sẽ báo tin
mừng này cho các vị khất sĩ biết và thầy có
ư định đem rang cám này lên cho thơm trước khi
dâng Bụt.
Cám đă thơm, thầy Ananda trút cám trở lại vào bát.
Thầy rủ Svastika đi với thầy về phía cây
nimba. Thầy dâng cám lên Bụt, Bụt hỏi thầy và
Svastika có ǵ ăn chưa. Svastika bạch là sáng nay chú đă
xin được hai củ khoai nhỏ. Thầy Ananda nói là
thầy đă có phần cám của thầy. Bụt bảo
hai người ngồi xuống bên người. Cả hai
vâng lệnh. Họ ngồi xuống, trang nghiêm mở
nắp b́nh bát ra. Svastika cầm của khoai trên tay, quán
niệm, rồi chú ngửng đầu lên, Bụt đang
bốc cám trong tay và ăn ngon lành. Chú nh́n mà muốn ứa
nước mắt.
Sau buổi pháp thoại chiều hôm đó, đại
đức Ananda báo tin cho đại chúng biết về
lời nguyện cúng dường cám của người
chủ ngựa. Thầy thêm là chỉ khi nào hoàn toàn không xin
được thức ăn, các vị khất sĩ
mới nên ghé tới chuồng ngựa. Thầy nói có cả
thảy năm trăm con ngựa, và số lượng cám
được cúng dường sẽ được
lấy bớt ra từ phần ăn của ngựa.
Đêm nay có trăng, đại đức Sariputta
đến thăm Bụt dưới cây nimba. Thầy
được Bụt mời ngồi trên một tọa
cụ gần đấy, thầy hỏi Bụt:
- Thế tôn, đạo lư thức tỉnh mà Thế Tôn
dạy thật là mầu nhiệm. Đạo lư này
chuyển đổi cả sự sống của những
ai được có cơ hội nghe, hiểu và làm theo.
Thế Tôn! Làm thế nào để đạo lư này
được tiếp nối sau khi người đă
trăm tuổi.
- Sariputta, nếu các vị khất sĩ thông hiểu kinh
kệ thực hành theo những pháp môn được
chỉ dẫn trong các kinh kệ đó và nhất là biết
chấp hành giới luật cho nghiêm chỉnh th́ đạo
lư giác ngộ có thể tiếp nối nhiều trăm
năm, có thể là cả ngàn năm về sau.
- Thế Tôn, con thấy số lượng các huynh
đệ thông thuộc kinh điển rất đông và
hầu hết đều chuyên cần ôn tụng kinh
kệ. Con nghĩ rằng nếu thế hệ
người xuất gia tiếp tục học hỏi và tŕ
tụng đều đều như thế th́ giáo huấn
của Bụt có thể truyền về rất xa trong
tương lai.
- Nhưng truyền tụng kinh điển chưa
đủ. Cần phải thực tập theo các pháp môn
chỉ bày trong kinh điển nữa, và nhất là phải
nghiêm tŕ giới luật. Này Sariputta, nếu các vị
khất sĩ không nghiêm tŕ giới luật th́ chánh pháp
sẽ không được trường tồn. Chánh pháp
sẽ mai một rất sớm.
- Vậy con xin thỉnh cầu Bụt thiết chế và
ban hành giới luật để làm mẫu mực ngàn
đời cho nếp sống xuất gia.
- Chưa được đâu, Sariputta. Giới luật
không thể được thiết chế đầy
đủ trong một ngày và từ một người. Vào
những năm đầu của giáo đoàn, chúng ta
chưa có một giới luật nào hết, nhưng từ
từ v́ những vụng dại và lỗi lầm của
các phần tử trong giáo đoàn mà một số các
giới điều đă được thiết chế
nên. Số lượng các điều, như thầy biết,
hiện đă lên tới trên một trăm hai mươi
khoản. Số lượng này sẽ tăng lên nữa
với thời gian. Những giới chưa thiết
chế ḿnh không thể thiết chế trước
được. Bây giờ đây chúng ta biết là các
điều khoản giới luật vẫn chưa
đầy đủ, và v́ vậy chúng ta sẽ phải đợi
một thời gian. Khi thấy các giới điều
đă đầy đủ, lúc đó chúng ta sẽ ban hành
giới luật cụ túc. Sariputta, số lượng các
giới điều, theo tôi thấy sẽ lên tới ít
nhất là hai trăm.
Ngày tự tứ đă tới, vị thí chủ giàu có
bảo trợ cho mùa an cư đă từ phương xa
trở về. Nghe nói các vị khất sĩ nhiều
người bị đói trong mùa an cư, ông ta rất
lấy làm hối hận. Ông tổ chức một buổi
trai tăng thật long trọng tại nhà. Sau khi cúng
dường cơm nước, ông c̣n cúng dường cho
Bụt và các vị khất sĩ mỗi người
một áo ca sa. Sau buổi thuyết pháp, Bụt và các vị
khất sĩ từ giă ông và đi về miền Nam.
Con đường về miền Nam thật đẹp.
Bụt và đoàn khất sĩ đi thành từng chặng.
Ngày đi, đêm nghỉ, buổi sáng thiền tọa
trước giờ khất thực. Trưa thọ trai và
nghỉ trong rừng. Buổi chiều tiếp tục
đi. Gặp những nơi cần giáo hoá, Bụt và các
vị khất sĩ ở lại nhiều hôm. Buổi
tối các thầy học hỏi và ôn tụng kinh
điển trước giờ tọa thiền. Sau
thiền tọa là nghỉ ngơi.
Một buổi chiều nọ, Svastika gặp trên
đường đi mấy em bé chăn trâu đang lùa trâu
về. Chú dừng lại để nói chuyện. Svastika
nghĩ đến thời niên thiếu của ḿnh.
Đột nhiên chú nhớ tới các em chú quá. Chú nhờ
thằng Rupak, chú nhớ con Bala, và nhất là chú nhớ con
Bhima, em út của chú. Niềm nhớ quặn lên trong ḷng chú.
Chú không biết rơ là đă đi tu th́ c̣n có quyền nghĩ
tới gia đ́nh của ḿnh hay không. Chú định một
hôm nào hỏi Bụt hoặc là hỏi thầy Ananda. Theo chú
biết th́ chú Rahula có nhiều lúc cũng nhớ mẹ
lắm. Chính Rahula đă tâm sự với chú như vậy.
Tuy đă hai mươi tuổi, Svastika vẫn c̣n cảm
thấy gần gũi với bọn trẻ, hơn là
với người lớn. Chú ưa quấn quít bên
cạnh Rahula. Rahula cũng cảm thấy thoải mái khi
gần gũi chú. Hai người đă có dịp tâm sự.
Chú đă từng kể cho Rahula nghe về cuộc
đời ḿnh như một em bé chăn trâu. Rahula chưa
bao giờ từng được ngồi trên một con
trâu. Nghe nói con trâu hiền lắm, Rahula vẫn chưa tin
được. Chú nói với Rahula rằng con trâu là một
con vật thuộc loại hiền nhất trong các loài động
vật, dù h́nh tướng của nó to lớn có thể làm
cho nít ở thành phố e ngại. Chú nói đă nhiều
lần chú ngằm ngửa thoải mái trên lưng trâu trên
con đường từ bên sông về nhà. Trong khi chú nh́n
trời xanh, mây trắng và đàn chim bay lượn, th́ con
trâu cứ chầm chậm đưa chủ về nhà; các
con trâu khác đều đi theo một cách ngoan ngoăn. Có khi
năm ngửa trên ḿnh trâu, chú c̣n thổi sáo nữa. Lưng
trâu rất ấm và cũng rất êm. Chú lại kể
về những tṛ chơi chú từng chơi chung với
bọn trẻ giữ trâu trong xóm. Rahula nghe chú kể
rất lấy làm ưa thích.
Rahula đă ở trong cung điện trong suốt thời
gian ấy, và Rahula đă có bao giờ được
chơi đùa theo cách đó đâu. Rahula đă từng ngơ ư
muốn được ngồi trên lưng trâu một phen.
Svastika hứa là sẽ t́m cách giúp cho Rahula toại
nguyện. Chính Svastika mà cũng con muốn trở về
ngồi trên lưng trâu, huống chi là Rahula. Nhưng t́nh
thế khó khăn lắm, đă làm khất sĩ mà c̣n
muốn chơi đùa ngồi trên lưng trâu như bọn
mục đồng, điều này không dễ. Svastika tính
thầm là có dịp đi hành hóa gần quê nhà, chú sẽ xin
Bụt cho chú ghé về thăm các em, rồi chú cũng
sẽ xin Bụt cho phép Rahula cùng đi với chú. Rahula
đă từng gặp các em của chú rồi. Về thăm
các em, chú sẽ bảo Rupak tập cho Rahula cỡi trâu trên
bờ ruộng, gần ḍng Neranjara. Ở đấy
vắng vẻ không có ai nh́n đến; chú cũng sẽ
cởi áo khất sĩ và cũng cỡi trâu như ngày
xưa. Ít nhất là trong một buổi chiều.
Mùa an cư năm tới, Bụt cư trú trên núi đá
Calika. Đây là Hạ thứ mười ba kể từ
ngày Bụt thành đạo. Năm nay thầy Meghiga
được làm thị giả cho Bụt. Một hôm
thầy Meghiga thú thật với Bụt là là có khi ngồi
một ḿnh trong rừng vắng, thầy thấy những
tư tưởng tạp loạn và ái dục nổi
dậy trong tâm. Thầy thường nhớ Bụt dạy
là vị khất sĩ phải biết sống một ḿnh
để có th́ giờ và cơ hội mà thực tập
thiền quán, nhưng khi ở một ḿnh thầy lại
gặp những chướng ngại khác trổi dậy
từ trong tâm.
Bụt dạy thầy rằng biết sống một ḿnh
không có nghĩa là sống không có bạn đạo. Gần
gũi bạn bè mà chỉ để chuyện tṛ phù
phiếm, điều ấy không có lợi cho sự tu
tập và làm mất hết th́ giờ, nhưng gần
gũi bạn hữu để nâng đỡ và chỉ
dẫn nhau trong việc thực tập là một
điều cần thiết. Vị khất sĩ nên
sống trong một đoàn thể, để
được nâng đỡ và khuyến khích, đó là ư
nghĩa của những tiếng quay về nương
tựa Tăng (Sangham saranam gacchami).
Bụt dạy đại đức Meghiga:
- Người khất sĩ cần hội đủ
năm điều kiện. Thứ nhất là có thiện
hữu trí thức, tức là những bạn đồng tu
có trí tuệ và đạo hạnh đủ để
hướng dẫn ḿnh. Thứ hai là phải có giới
luật để giúp ḿnh an trú trong chánh niệm. Thứ ba
là phải có cơ hội học hỏi giáo pháp. Thứ
tư là phải chuyên cần. Thứ năm phải có
sự hiểu biết. Bốn điều kiện sau
cũng có liên hệ nhiều tới điều kiện
thứ nhất là có thiện hữu trí thức. Meghiga,
muốn điều phục ái dục, sân hận và si mê,
thầy phải thường xuyên thực tập cửu
tưởng quán, từ bi quán, vô thường quán và tùy
tức quán. Bốn phép quán này có công năng đưa
đến giải thoát và giác ngộ.
Cửu tưởng quán là quán chiếu về quá tŕnh tàn
hoại của cơ thể, thấy được quá
tŕnh hủy diệt của một thân thể từ khi
tắt thở cho đến khi xương cốt tan thành
tro bụi. Quá tŕnh này có cả thảy là chín giai
đoạn, cho nên gọi là cửu tưởng quán. Cửu
tưởng quán có thể giúp ta đối trị ái
dục.
Từ bi quán là quán chiếu về những nguyên nhân đă
đưa tới tâm niệm giận dữ của ḿnh,
trong đó có những nguyên nhân thuộc tâm lư của ḿnh, và
những nguyên nhân xa gần đă khiến người khác
nói năng và hành động thế nào để ḿnh
nổi cơn giận dữ. Từ bi quán giúp ta đối
trị sân hận.
Vô thường quán là quán chiếu quá tŕnh sinh diệt
của vạn pháp; phép quán này có công năng diệt trừ
si mê. Tùy tức quán là theo dơi hơi thở và nuôi
dưỡng chánh niệm; phép quán này có công năng
đối trị loạn tâm.
Nếu thầy thường xuyên thực tập bốn
phép quán ấy, thầy sẽ đạt tới trạng
thái tự do của tâm ư.
chương năm mươi
mốt
Kho Tàng Của Cái Thấy
Măn mùa an cư,
Bụt lên đường, hướng về Savatthi.
Svastika và Rahula được phép tùy tùng người.
Đây là lần đầu Svastika được
đến tu viện Jetavana. Tu viện rất đẹp
và đầy đủ mọi tiện nghi cho sự tu
học.
Khung cảnh đă tươi mát mà không khí lại
đầm ấm. Thấy Svastika, thầy nào cũng
mỉm cười.
Ai cũng biết là do vị khất sĩ trẻ này mà
Bụt đă nói kinh Chăn Trâu. Svastika nhận thấy
rằng trong một hoàn cảnh thuận tiện cho sự
tu học như thế này chắc chắn chú sẽ
đạt được nhiều tiến bộ. Chú
hiểu tại sao Tăng cũng quan trọng như
Bụt và Pháp. Tăng là đoàn thể của những
người cùng đi trên con đường tỉnh
thức, và ta phải t́m về nương tựa Tăng
để được nâng đỡ và hướng
dẫn. Cũng như ta đă t́m về nương tựa
Bụt và Pháp.
Năm nay, vị sa di Rahula được hai mươi
tuổi. Chú được đại đức Sariputta
làm lễ trao giới khất sĩ.
Cả tu viện đều vui mừng. Đại
đức đă dạy chú thật chu đáo nhiều ngày
trước ngày chú thọ giới.
Chú Svastika cũng được hân hạnh dự nghe
những lời giáo huấn này.
Sau khi Rahula được thọ giới khất sĩ.
Bụt đă để th́ giờ đặc biệt
dạy cho chú về các công phu thiền quán, Svastika cũng
được dự thính các buổi dạy. Bụt
dạy Rahula quán chiếu về sáu giác quan là mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ư, về sáu đối
tượng của giác quan là h́nh sắc, âm thanh, mùi vị,
xúc chạm và ư niệm, và về sáu thức là cái thấy,
cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và ư thức.
Người dạy Rahula quán chiếu về tự tính vô
thường của mười tám hiện tượng
đó mà người gọi là thập bát giới.
Mười tám hiện tượng gồm có sáu căn, sáu
trần và sáu thức. Căn tức là cơ quan cảm
giác, trần là đối tượng của các cơ quan
đó, và thức là những nhận thức phát sinh ra từ
sự xúc chạm giữa căn và trần. Phép quán này
gọi là giới phân biệt quán.
Bụt dạy quán chiếu căn, trần và thức
để thấy tất cả các hiện tượng này
đều nương vào nhau mà có mặt, để
thấy được tự tính vô thường và duyên
sinh của chúng. Một khi đă thấy như thế th́
hành giả chứng đắc được tính cách vô ngă
và thoát ly được sinh tử. Bụt dạy thầy
khất sĩ trẻ Rahula thật kỹ lưỡng
về đạo lư vô ngă. Bụt nói:
- Này Rahula, trong năm uẩn là thân thể, cảm thọ,
tri giác, tâm hành và nhận thức, không có ǵ bất biến
để có thể gọi là ngă cả. Thân thể này không
phải là ngă. Thân thể này cũng không phải là ngă
sở, nghĩa là vật sỡ hữu của ngă. Ngă không
nằm trong thân thể, thân thể cũng không nằm trong
ngă.
Có ba loại kiến chấp về ngă. Kiến chấp
đầu là cho rằng thân thể này là ngă. Hoặc
cảm thọ, tri giác, tâm hành và nhận thức này là ngă.
Kiến chấp này gọi là ngă chấp. Khi nói tới thân
thể này không phải là ngă, người ta có thể
rơi vào kiến chấp thứ hai, cho rằng ngă là
một cái ǵ riêng biệt với thân thể, và thân thể
chỉ là một vật sở hữu của ngă. Kiến
chấp thứ hai này gọi là dị ngă chấp. Kiến
chấp thứ ba cho rằng trong thân thể có ngă và trong ngă
có thân thể, hai không là hai mà cũng không là một, cái
nầy nằm trong cái kia. Kiến chấp này gọi là
tương tại chấp.
Rahula, quán vô ngă là phải nh́n sâu vào ḷng năm uẩn
để thấy năm uẩn không phải là ngă, không
phải là dị ngă, cũng không phải là tương
tại. Vượt được ba kiến chấp này
rồi mới thực sự chứng nghiệm
được tự tính vô ngă của vạn pháp.
Tại tu viện Cấp Cô Độc này có một thầy
tên là Thera. Svastika nhận xét rằng thầy này ít ưa nói
chuyện với ai, và đi đâu cũng đi một
ḿnh, làm ǵ cũng làm một ḿnh. Đại đức Thera
không làm phật ḷng ai, cũng không phạm vào giới
điều nào, nhưng thầy sống có vẻ lẻ loi
và không thật sư ḥa hợp với đại chúng,
Svastika đă có lần tới gần thầy để
gợi chuyện nhưng thầy cũng tránh đi. Mọi
người đặt tên cho thầy là “người ưa
sống một ḿnh”.
Svastika biết rằng Bụt thường khuyến khích
các thầy tránh tụ họp chuyện tṛ, tránh những
buổi nhàn đàm vô ích để có th́ giờ sống
một ḿnh mà thiền quán, nhưng chú cảm thấy cách
sống của thầy Thera không thật sự là cách
sống mà Bụt muốn.
Một buổi chiều, nhân có cơ hội, Svastika đem
chuyện này tŕnh bày lên Bụt.
Ngày mai lại, trong giờ pháp thoại, Bụt gọi
đại đức Thera lên và hỏi:
- Thầy là người ưa sống một ḿnh, làm cái ǵ
cũng ưa làm một ḿnh và tránh sự chung đụng
với các thầy khác, có phải vậy không?
Đại đức đáp:
- Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Thế Tôn
thường dạy người khất sĩ nên biết
độc cư, nghĩa là nên sống một ḿnh.
Quay lại đại chúng, Bụt nói:
- Các vị khất sĩ, tôi muốn dạy cho các vị
thế nào là thật sự biết sống một ḿnh.
Người thật sự biết sống một ḿnh là
người biết an trú trong chánh niệm. Người
ấy ư thức được những ǵ đang xảy
ra trong thân thể, trong cảm giác, trong tâm ư và nơi
những đối tượng của tâm ư. Người
ấy biết quán chiếu sự sống trong giờ phút
hiện tại, không t́m về quá khứ, không tưởng
tới tương lai, v́ quá khứ th́ không c̣n mà
tương lai th́ chưa tới. Sự sống chỉ có
mặt trong giờ phút hiện tại. Nếu ta bỏ
giờ phút hiện tại, ta đánh mất sự
sống.
Này các vị, thế nào là t́m về quá khứ? T́m về quá
khứ ở đây có nghĩa là tự đánh mất ḿnh
trong quá khứ, trôi dạt trong quá khứ trên những
đợt sóng tư duy: trong quá khứ h́nh thể ta
từng như thế đó, cảm thọ ta từng
như thế đó, địa vị ta từng như
thế đó, hạnh phúc ta từng như thế đó ...
Phát khởi lên những tư duy như thế và bị ràng
buộc bởi những ǵ thuộc về quá khứ, đó
là t́m về quá khứ.
Này các vị, thế nào là tưởng tới tương
lai? Tưởng tới tương lai ở đây có
nghĩa là tự đánh mất ḿnh trong tương lai, trôi
dạt trong tương lai, trên những đợt sóng
tư duy, lo sợ hoặc mơ tưởng: trong
tương lai, h́nh thể ta sẽ được hay
sẽ bị như thế đó, cảm thọ ta sẽ
được hay bị như thế đó, hạnh phúc
ta sẽ được như thế đó, khổ đau
ta sẽ bị như thế đó ... Phát khởi lên
những tư duy như thế và bị ràng buộc
bởi những ước mơ hoặc lo sợ về
tương lai ... đó là tưởng tới tương
lai.
Này các vị, trở về giây phút hiện tại là
để tiếp xúc với sự sống và để
quán chiếu sự sống. Nếu không tiếp xúc th́ không
thể quán chiếu. Chánh niệm giúp ta trở về
hiện tại, tiếp xúc với hiện tại và quán
chiếu sự sống trong hiện tại. Trở về
hiện tại không có nghĩa là tự đánh mất ḿnh
trong những đam mê hoặc sầu khổ về
hiện tại. Nếu bị ràng buộc bởi những
đam mê và sầu khổ về những ǵ đang xảy
ra trong hiện tại th́ sự sống cũng không có
mặt. Sự sống không có mặt v́ chánh niệm không có
mặt.
Này các vị khất sĩ, người biết sống
một ḿnh là người biết an trú trong hiện
tại, dù người ấy đang ngồi giữa
đám đông. Một người ngồi trong rừng sâu
mà nếu không có chánh niệm, nếu bị những con ma
quá khứ và tương lai lôi cuốn và ám ảnh th́
người ấy vẫn không phải là người
biết sống một ḿnh. Rồi Bụt đọc cho
các thầy nghe một bài kệ:
"Đừng t́m
về quá khứ
Đừng tưởng tới tương lai
Quá khứ đă không c̣n
Tương lai th́ chưa tới
Hăy quán chiếu sự sống
Trong giờ phút hiện tại
Kẻ thức giả an trú
Vững chăi và thảnh thơi
Phải tinh tiến hôm nay
Kẻo ngày mai không kịp
Cái chết đến bất ngờ
Không thể nào mặc cả
Người nào biết an trú
Đêm ngày trong chánh niệm
Th́ Mâu Ni gọi là
Người Biết Sống Một Ḿnh."
Đọc xong bài kệ, Bụt cảm ơn đại
đức Thera và bảo thầy đi xuống.
Người không trực tiếp khen hay chê thầy.
Nhưng chắc chắn là lần này đại đức
thật sự hiểu được ư Bụt.
Trong buổi pháp đàm hôm đó, Svastika nghe các thầy
lớn nói rằng những lời dạy của Bụt
hôm đó rất là quan trọng, mọi người cần
phải ghi nhớ. Đại đức Ananda trùng tuyên
một lần nữa những điều Bụt nói cho
mọi người nghe. Thầy đọc lại bài
kệ của Bụt một cách trôi chảy và thông
suốt. Svastika lấy làm lạ. H́nh như thầy Ananda
nhớ hết những lời Bụt nói không sót một
tiếng nào. Cách nói, lời nói, và cú pháp giống hệt
như khi Bụt nói. Khi đại đức Ananda trùng
tuyên xong lời Bụt, đại đức Mahakaccana
đứng lên nói:
- Ta hăy nên lấy lời Bụt dạy hôm nay làm thành
một kinh văn. Thưa các huynh đệ, tôi xin
đề nghị gọi kinh này là kinh Bhaddekaratta nghĩa là
kinh Người Biết Sống Một Ḿnh, và cũng xin
đề nghị tất cả các huynh đệ học
thuộc ḷng để hành tŕ. Ít nhất mỗi
người trong chúng ta đều phải học thuộc
ḷng bài kệ.
Đại đức Mahakassapa đứng dậy tán
đồng ư kiến ấy.
Sáng hôm sau, trong khi đi khất thực, Bụt gặp
một bọn trẻ con đang tụ họp với nhau
chơi đùa. Các thiếu nhi này đang hành hạ những
con cua nhỏ mà chúng bắt được dưới
ruộng. Một đứa trong bọn chúng lấy ngón tay
trỏ của bàn tay trái đè xuống lưng một con cua . Với tay phải, nó bẻ một càng
của con cua. Bọn trẻ reo ḥ vang dậy. Đứa
kia thích chí, bẻ găy một cái càng cua khác. Bọn trẻ
lại vỗ tay ḥ reo. Chúng chơi như vậy cho
đến khi tất cả hai càng và tám chân của con cua
đều bị bẻ găy hết. Rốt cuộc chúng
liệng con cua xuống ruộng và đi bắt một con
khác để chơi.
Thấy Bụt và các thầy tới, bọn chúng ngửng
đầu lên rồi lại cúi xuống chơi tṛ hành
hạ mấy con cua. Chúng tàn ác mà không biết là chúng tàn ác.
Bụt bảo bọn trẻ ngừng tay. Người nói:
- Này các con, nếu các con bị trặc chân tay hay găy tay th́
các con có đau không?
- Bạch thầy, có, bọn trẻ trả lời.
- Con cua bị các con bẻ găy càng và găy chân cũng đau
đớn như thế đó. Các con có biết không?
Bọn trẻ nín bặt.
Bụt nói tiếp:
- Con cua cũng biết ăn uống, con cua cũng có cha,
mẹ, anh và chị của nó như là các con vậy. Các con
làm khổ con cua như thế th́ các con cũng làm khổ
luôn cả cha mẹ và anh chị nó. Các con hăy suy nghĩ
đi.
Bọn trẻ tỏ vẻ hối hận.
Lúc bấy giờ thấy Bụt và các thầy xúm quanh
một bọn trẻ, những người qua lại
gần đấy cũng ghé lại xem. Nhân cơ hội
này Bụt dạy cả trẻ em lẫn người
lớn về ḷng từ bi. Người nói:
- Chúng ta phải làm sao để cho tất cả mọi
loài đều cảm thấy có an ổn và có niềm vui
trong sự sống. Chúng ta phải bảo vệ sự
sống cho nhau và đem niềm vui cho nhau. Tất cả
mọi loài, dù lớn, dù nhỏ, dù đi bằng hai chân hay
đi bằng bốn chân, dù ḅ trên mặt đất hay bay
trên hư không hoặc bơi lội trong nước cũng
đều có quyền sống. Chúng ta không nên đem tâm
hận thù nhau, sát hại nhau. Chúng ta nên che chở cho nhau.
Này các con, cũng như một bà mẹ đem thân mạng
che chở cho đứa con thân yêu duy nhất của ḿnh,
mỗi người trong chúng ta phải mở ḷng ra
để đón nhận và che chở cho tất cả các
loài có sinh mệnh. Ḷng thương của chúng ta phải
bao trùm tất cả mọi loài sinh vật đang có
mặt trên, dưới, trong, ngoài và chung quanh ta. Trong khi
đi, đứng, nằm, ngồi, trái tim ta phải mang
theo t́nh thương đó, và ta hăy an trú đêm ngày trong t́nh
thương đó.
Dạy xong, Bụt rủ bọn trẻ cũng đem
thả những con cua c̣n lại xuống ruộng, rồi
người cùng các vị khất sĩ tiếp nối con
đường đi khất thực.
Svastika biết Bụt rất chú tâm đến việc
hướng dẫn trẻ em nên chú bàn với chú Rahula tổ
chức những buổi tập hợp thiếu nhi tại
tu viện Jetavana để các em có dịp được
học hỏi với Bụt. Với sự cộng tác
của những người cư sĩ trẻ
thường hay đến tu viện nghe Pháp, nhất là
với bốn người con của cư sĩ Sudatta.
Svastika và Rahula thường quy tụ các em thiếu nhi trong
vùng về chùa mỗi tháng một lần.
Cư sĩ Sudatta có bốn người con: Subhada chị,
Subhada em, Sumana và Kala. Kala là con trai duy nhất của cư
sĩ.
Ban đầu Kala không có vẻ hăng hái lắm, nhưng
v́ mến Svastika nên cậu từ từ dấn thân vào
việc tu học. Công chúa Vajiri con quốc
Một buổi chiều rằm, công chúa rủ bọn
trẻ đem hoa lên tận tịnh xá dâng Bụt. Mỗi em
cầm trong tay những cành hoa hái được trong
vườn nhà của ḿnh. Có em đă hái được
cả những cành hoa dại trên đường
đến tu viện. Công chúa Vajiri ôm theo một bó sen đă
hái được ngay trong hồ sen vườn
Thượng Uyển.
Khi lên tới tịnh xá th́ công chúa và bọn trẻ
được biết Bụt đă ra giảng
đường. Đă đến giờ người nói
pháp thoại. Pháp thoại hôm nay được nói chung cho
cả hai giới xuất gia và tại gia. Các em thiếu nhi
rủ nhau cùng lên pháp đường.
Thấy thiếu nhi tới, các thầy và các vị cư
sĩ đều nhường lối cho các
B
Bụt mỉm cười đáp lễ các em và bảo
tất cả đi xuống t́m chỗ ngồi phía
trước đại chúng.
Buổi pháp thoại hôm đó thật là đặc
biệt. Đợi các thiếu nhi ngồi xuống yên
ổn. Bụt mới đứng dậy. Người
cầm lấy một bông sen đưa lên trước
mặt đại chúng, không nói năng ǵ. Tất cả
đại chúng đều im phăng phắc. Không ai
hiểu Bụt muốn nói ǵ bằng cử chỉ ấy.
Một lát sau, Bụt đưa mắt quan sát đại
chúng rồi mỉm cười. Người lên tiếng:
- Tôi có con mắt của chánh pháp, kho tàng của cái thấy
mầu nhiệm và tôi đă trao lại cho Mahakassapa.
Mọi người đổ dồn hai mắt về
đại đức Kassapa. Nụ cười chưa
tắt trên môi đại đức. Mắt thầy
vẫn nh́n lên Bụt. Mọi người lại nh́n lên
Bụt. Bụt đang nh́n bông hoa và mỉm cười.
Svastika không hiểu ǵ hết và nghĩ rằng có nhiều
người cũng ngẩn ngơ như chú. Chú biết
điều quan trọng nhất trong lúc này là giữ chánh
niệm và chú bắt đầu theo dơi hơi thở theo
phương pháp đă được học với
Bụt.
Chú thấy bông
Svastika cảm nhận được cái đẹp tinh
khiết và trang trọng mà không cần suy tư t́m hiểu.
Bất giác chú cũng mỉm miệng cười.
Bỗng Bụt cất tiếng nói. Tiếng của ngài
trong, ấm và sang sảng:
- Đại chúng, bông hoa này là một thực tại
mầu nhiệm. Khi tôi cầm nó đưa lên trước
đại chúng, tất cả chúng ta đều có cơ
hội tiếp xúc với bông hoa. Cơ hội ấy là
một cơ hội đồng đều. Tiếp xúc
được với bông hoa là tiếp xúc được
với thực tại mầu nhiệm, tiếp xúc với
sự sống.
Mahakassapa đă mỉm cười trước tiên v́
Mahakassapa đă tiếp xúc được với bông hoa
trước tiên. Trong đại chúng đây, có những
vị không tiếp xúc được với bông hoa, đó
là v́ trong tâm của quư vị c̣n có những chướng
ngại.
Có những vị đang đặt câu hỏi: "v́
cớ ǵ mà sa môn Gotama hôm nay đưa cành hoa lên?" V́ tâm
các vị ấy đang bận rộn về những ư
tưởng, cho nên các vị ấy không tiếp xúc
được với bông hoa.
Đại chúng, đắm ch́m trong suy tư là một trong
những nguyên do khiến ta không tiếp xúc được
với thực tại.
Trong trường họp đang bị lo lắng, phiền
muộn, giận hờn hay ghen ghét chế ngự, ta
cũng mất cơ hội tiếp xúc với thực
tại mầu nhiệm.
Đại chúng! Bông hoa trong tay tôi có thể chỉ thật
sự có mặt đối với những ai biết an
trú, trong chánh niệm nơi giờ phút hiện tại.
Nếu quư vị không trở về an trú trong giờ phút
hiện tại th́ bông hoa có mặt cũng như không.
Có những người đi ngang qua rừng cây trầm
hương mà không thấy được một cây
trầm hương. Có những người đi qua
sự sống mà không tiếp xúc được với
sự sống. Đại chúng! Sự sống chứa
chất khổ đau mà sự sống cũng đầy
những mầu nhiệm. Quư vị phải tinh cần và
tỉnh thức để tiếp xúc với những
khổ đau và những mầu nhiệm ấy của
sự sống.
Nhưng tiếp xúc với khổ đau không có nghĩa là
tự đánh mất ḿnh trong khổ đau và tiếp xúc
với mầu nhiệm không có nghĩa là tự đánh
mất ḿnh trong mầu nhiệm. Tiếp xúc là để
thực sự chứng nghiệm sự sống và quán
chiếu sự sống, ta sẽ thấy được
tự tính duyên khởi và vô thường của sự
sống, do đó ta sẽ không đánh mất ta trong tham
đắm, trong giận hờn và trong mê muội. Ta sẽ
thường xuyên an trú trong tự do và
giải thoát.
Svastika rất sung sướng. Chú hiểu
được lời Bụt dạy. Chú hài ḷng
lắm khi nhớ ra rằng chú đă mỉm cười khi
tay Bụt c̣n cầm bông hoa đưa
lên. Đại đức Mahakassapa mỉm cười
trước v́ đại đức là một đệ
tử lớn của Bụt, đứng về hàng
thầy của chú. Chú làm sao tự so sánh ḿnh với
đại đức, cũng như với các vị cao
đệ khác của Bụt như các thầy Sariputta,
Moggallana, Assaji v.v... Năm nay chú chỉ
mới hai mươi bốn tuổi.
chương năm mươi hai
Phước
Điền Y
Năm sau, Svastika được theo Bụt về an
cư ở tu viện Nigrodha sát bên thành Kapilavatthu quê
hương của Bụt.
Bụt đă về quê trước mùa an cư bởi v́
người nghe nói có sự xích mích và tranh chấp giữa
hai nước Sakya và Koliya.
Sakya là quê nội của Bụt và Koliya là quê
ngoại của người.
Hoàng hậu Mahamaya và công chúa Yasodhara
đều có gốc gác từ Koliya. Hai
nước đă chống nhau v́ ḍng sông Rohini.
Số là năm ấy trời không có mưa mà
cả hai bên đều thiếu nước tưới
ruộng. Mực nước sông Rohini
cũng rất thấp. Nước không đủ cho
cả hai bên dùng, mà bên nào cũng muốn đắp
đập dẫn hết nước sông về phía ḿnh. Ban
đầu chỉ là lời qua tiếng lại giữa nông
dân hai phía. Sau đó th́ có xung đột và đấm đá,
rồi dân vệ và cảnh sát hai bên nhập cuộc. Cuối cùng là binh đội hai nước dàn
trận hai phía bờ sông. T́nh thế
trở nên gay cấn và nguy hiểm.
Bụt muốn biết nguyên do của cuộc tranh
chấp. Hỏi các vị tướng chỉ huy quân
đội, Bụt được cho họ biết là v́
phía bên kia khinh người, xâm phạm
tài sản và tính mạng bên này. Hỏi các nhà chính trị,
họ cũng trả lời tương tợ. Không ai nói
cho Bụt nghe do thật sự của cuộc tranh
chấp. Măi đến khi Bụt nói chuyện với các
nông dân nghèo, người mới biết nguyên do thật
sự của cuộc tranh chấp là nước
tưới.
Vốn có liên hệ thân tộc sâu xa với cả hai ḍng
họ Sakya và Koliya, Bụt sắp đặt
được một cuộc gặp gỡ giữa các
vị quốc vương, một bên là quốc
Ngư
Người nói rằng trong một cuộc chiến tranh,
ai cũng là người thua cuộc, dù là thua nhiều hay
thua ít.
Bụt hỏi:
- Các vị đại vương, nước sông quư
hơn hay mạng người quư hơn?
Vua nào cũng trả lời là mạng người là quư
hơn, mạng người là vô giá. Bụt nói:
- Các vị đại vương, nước tưới
là đầu mối của cuộc tranh chấp giữa
hai nước, nhưng nếu không có ḷng tự ái và sự
căm giận th́ sự tranh chấp về nước
tưới sẽ không đủ để đưa
tới một cuộc chiến tranh. Các vị đại
vương! Chúng ta phải xét lại tâm ư
chúng ta. Chúng ta đừng v́ ḷng tự ái
và sự căm giận lẫn nhau mà làm tổn phí máu
xương của dân chúng hai nước.
Buông bỏ tự ái và giận hờn là chúng
ta tháo gỡ được guồng máy chiến tranh.
Giải quyết vấn đề tranh
chấp về nước tưới không khó. Chúng ta chỉ cần ngồi lại thương
thuyết với nhau. Có bao nhiêu nước trong ḍng
Rohini th́ ta chia cho cả hai phía, dù nước không
đủ cho cả hai bên. Chúng ta sẽ t́m ra
giải pháp để bên nào cũng được thừa
hưởng đồng đều số lượng
nước tưới.
Nhờ sự can thiệp của Bụt mà hai bên đă
đi tới một sự thỏa thuận về vấn
đề nước tưới và thiết lập liên
lạc ngoại giao thân t́nh như cũ. Quốc
Sau mùa an cư ở Kapilavatthu. Bụt trở
về miền
Mùa an cư thứ mười sáu, người cư trú
tại Alavi.
Mùa an cư thứ mười bảy, người về
tu viện Trúc Lâm.
Mùa an cư thứ mười tám, người ở Koliya.
Mùa an cư thứ mười chín, người lại
trở về Rajagaha.
Tại Rajagaha, từ mấy năm nay, Bụt ưa cư
trú trên núi Gijjhakuta, một ngọn núi đá có h́nh dáng chim
thứu nên cũng được gọi là Thứu Sơn.
Vua Bimbisara thường hay đến viếng Bụt và
nghe pháp trên núi này. Vua đă cho xây bậc đá
từ chân núi lên tới tịnh xá của Bụt. Mấy
cái thung lũng nhỏ đă được vua cho san
bằng. Vua lại cho bắc cầu qua
mấy thác nước.
Xa giá tới chân núi, vua đi bộ lên theo
các bậc đá.
Gần tịnh xá có một tảng đá
lớn bằng cả mấy ṭa nhà. Tịnh
thất của Bụt được xây bằng đá
lấy ngay tại chỗ.
Phía Đông Bắc tịnh xá, có một ḍng suối chảy
qua khe đá. Bụt thường giặt áo ca sa trên ḍng suối này và phơi áo trên một
phiến đá khá lớn bên suối.
Ngồi trước tịnh xá, vào những ngày quang
đăng, Bụt thấy được cả kinh đô
Rahajaga, Bụt rất ưa ngồi ngắm mặt
trời lặn từ điểm nh́n nầy. Cảnh tượng mặt trời lặn ở
đây thật huy hoàng và diễm lệ.
Các đại đức lớn như Sariputta, Uruvela
Kassapa, Moggallana, Upali, Devadatta và Ananda đều có tịnh xá
riêng trên núi Linh Thứu. Trong vùng lân cận thủ đô
Rajagaha đă có tới mười tám cơ sở tu học
quan trọng của tăng đoàn. Ngoài tu viện Trúc Lâm
(Venuvana) và núi Linh Thứu (Gijjhakuta), c̣n có những trung tâm
nổi tiếng khác, trong đó nổi bật nhất là
Vaibharavana, Sarpasundikapragbhara, Saptaparnaguha và Indrasailaguha. Hai nơi sau là hai động đá lớn.
Gần núi Linh Thứu, có tịnh xá của một vị y
sĩ trẻ nổi tiếng tên là Jivaka. Vị
y sĩ này là một trong những đệ tử tại
gia thân cận nhất của Bụt. Jivaka là con của vua
Bimbisara và của bà mệnh phụ Ambapali. Chàng học thuốc từ năm mười
bốn tuổi tại Taksassila. Năm mười
lăm tuổi, chàng đă được mẹ tới
đón, đưa về tu viện Trúc Lâm để
viếng Bụt.
Năm nay Jivaka đă hai mưới sáu tuổi. Tốt nghiệp ngành y từ năm hai mươi
ba tuổi. Jivaka đă trở nên một
lương y nổi tiếng sau khi chữa lành cho nhiều
người đă từng mắc những chứng
bệnh hiểm nghèo. Jivaka cũng đă
từng chữa bệnh cho vua Bimbisara.
Từ mấy năm nay, Jivaka thường lui tới tu
viện Trúc Lâm và núi Linh Thứu để chăm sóc
sức khỏe của Bụt và của các vị khất
sĩ. Vào đầu mùa lạnh, Jivaka cổ
động các bạn cúng dường thêm y áo cho các vị
khất sĩ để họ đắp mà ngủ ban
đêm. Jivaka cũng đă cúng
dường Bụt một bộ y. Vị lương y này
không những lưu tâm đến việc trị bệnh
mà c̣n lưu tâm đến việc ngừa bệnh nữa.
Ông đề nghị với Bụt một
số biện pháp vệ sinh cần được áp
dụng cho các vị khất sĩ.
Mỗi thầy nên có một dụng cụ lọc
nước để uống, và nước lấy từ
ao hồ th́ nên được đun sôi. Y áo
mỗi bảy ngày phải được giặt ít
nhất một lần. Nhà tắm
cần được dựng thêm trong tu viện.
Thức ăn hôm nay không nên dành lại
cho ngày hôm sau. Tất cả những điều Jivaka
đề nghị, Bụt đều chấp nhận.
Cúng dường ca sa đă trở nên
một hành động rất phổ thông trong dân chúng.
Có một hôm Bụt thấy một vị
khất sĩ trở về tu viện trên vai nặng
trĩu cả y áo. Bụt hỏi:
- Thầy có bao nhiêu chiếc y tất cả?
- Lạy Bụt, con được cúng dường tất
cả tới tám chiếc y.
- Thầy cần dùng nhiều y đến thế sao?
- Lạy Bụt, con không cần dùng nhiều y như
thế, tại v́ người ta cúng dường nên con
phải nhận.
- Theo thầy th́ mỗi vị khất sĩ cần có bao
nhiêu chiếc y là đủ?
- Lạy đức Thế Tôn, con nghĩ ba chiếc y là
đủ cho mỗi người. Ngồi thiền trong
rừng lạnh hoặc ngủ nghỉ ban đêm
dưới gốc cây mà có được ba y th́ đă là
đủ ấm.
Bụt nói:
- Tôi cũng nghĩ như thầy vậy. Khi
nào lạnh lắm tôi cũng chỉ cần tới
chiếc y thứ ba. Từ rày về sau, mỗi
vị khất sĩ chỉ có quyền có một cái b́nh bát
và ba chiếc y ca sa mà thôi. Nếu
được cúng dường thêm quư vị nên từ
chối.
Vị khất sĩ bái tạ Bụt và đi về
tăng xá của ḿnh.
Có một hôm khác đứng trên một
ngọn đồi. Bụt chỉ những thửa
ruộng nối nhau chạy dài đến chân trời và nói
với đại đức Ananda:
- Ananda, thầy có thấy những thửa ruộng lúa chín
vàng được chia thành từng ô chạy dài tới chân
trời không? Đẹp quá! Tại sao ta không đề
nghị may áo ca sa cho các vị khất
sĩ theo kiểu mẫu này?
Ananda bạch:
- Ư của Thế Tôn thật hay. Áo ca sa
may theo h́nh dáng những thửa ruộng như thế này
th́ đẹp biết bao nhiêu. Con từng nghe Thế Tôn nói
một vị khất sĩ tu học nghiêm chỉnh là
một thứ đất ruộng rất tốt trên đó
ta có thể gieo những hạt giống phước
đức cho hiện tại và tương lai. Cúng
dường, học hỏi và tu tập theo
vị khất sĩ ấy tức là gieo những hạt
giống phước đức vậy. Nếu Thế Tôn
cho phép, con sẽ bố cáo với đại chúng về
cách thức may y trong tương lai và sẽ gọi
kiểu y này là phước điền y.
Bụt mỉm cười. Người
gật đầu ưng thuận.
Mùa an cư năm sau. Bụt
cư trú tại tu viện Jetavana ở thủ đô
nước Kosala.
Cư sĩ Suddata đă thân hành về Rajagaha
thỉnh người. Cư sĩ nhắc là đă
từ lâu Bụt không an cư tại
Jetavana.
Đây là mùa an cư thứ hai
mươi của Bụt sau ngày người thành
đạo.
Năm nay Bụt đă năm mươi lăm tuổi.
Được tin Bụt về an cư tại Savatthi,
quốc
Sau ngày được gặp Bụt và trở nên
đệ tử của người, quốc
Trong suốt mùa an cư, vua không bỏ
một pháp thoại nào của Bụt mà không đến
nghe. Người đến nghe pháp càng ngày
càng đông. Trong số những vị đệ
tử mới có nữ cư sĩ Visakha, được
xem như là nữ thí chủ lớn nhất của tu
viện. Thấy các vị khất sĩ tại tu viện
quá đông đảo, bà phát tâm đem khu vườn
rộng răi và xanh tốt của bà ở phía Đông thành
phố Savathi cúng dường cho Bụt và cho giáo đoàn.
Khu đất này đẹp không thua ǵ vườn cây Jeta,
nhưng diện tích th́ hẹp hơn. Với sự hợp
sức của các bạn, bà Visakha đă xây dựng được
nhiều tăng xá và thiền đường trong khu
đất. Khi tu viện mới
được hoàn thành, đại đức Sariputta
đề nghị đặt tên là tu viện Đông Viên
(Purvarama). Giảng đường ở trung tâm tu
viện được đặt tên là Lộc Mẫu
Đường, Lộc Mẫu Đường là biệt
hiệu của nữ cư sĩ Visakha, Lộc (Migarai) là
tên con trai lớn của bà.
Nữ cư sĩ Visakha sinh trưởng
ở Bhaddhya trong vương quốc Anga. Cô là con gái
của nhà triệu phú Dhananjaya. Lớn lên cô
lấy chồng ở Savathi. Chồng cô
cũng là một triệu phú. Hai cha con đều là
đệ tử trong giáo phái Nigantha Nataputta; hai người
vốn không có cảm t́nh với Bụt và giáo đoàn
khất sĩ, nhưng nhờ đức hạnh và sự
đằm thắm của Visakha mà hai người dần
dần có cảm t́nh với Bụt và sau đó không lâu
đều trở nên đệ tử của Bụt.
Bà Visakha thường hay đi chùa với một
người bạn gái tên là Suppiya. Bà phát nguyện với
Bụt là sẽ thường xuyên cúng dường thuốc
men cho bất cứ vị khất sĩ và nữ khất
sĩ nào đến Savatthi mà bị đau ốm, sẽ
cúng dường áo ca sa và khăn tắm cho tất cả
các vị khất sĩ và nữ khất sĩ nào đến
an cư tại Savatthi. Bà cũng đă triệt để
ủng hộ ni sư Mahapajapati trong việc thiết
lập và trang bị một trung tâm tu học cho các vị
nữ khất sĩ bên hữu ngạn sông Ganga gần sát
thủ đô Savatthi. Bà là người hộ tŕ rất
đắc lực cho các vị nữ khất sĩ, không
những về phương diện vật chất mà c̣n
trên phương diện tinh thần nữa. Bà đă
từng can thiệp và hóa giải những vụ xích mích
xảy ra giữa ni chúng trong nữ tu
viện.
Trong một buổi pháp đàm tại giảng
đường Lộc Mẫu, các vị cao đệ
của Bụt đă đi tới quyết định quan
trọng sau nhiều giờ đàm luận, quyết
nghị đầu là đề nghị thầy Ananda làm
thị giả thường xuyên cho Bụt. Đề
nghị thứ hai là từ nay về sau, cứ tới mùa
an cư th́ thỉnh Bụt trở về Savathi.
Đề nghị đầu là do đại đức
Sariputta đưa ra. Đại đức nói:
- Sư huynh Ananda là người có trí nhớ bền bĩ
nhất trong chúng ta. Trí nhớ của sư huynh thật là
lạ lùng, trên trần gian này không ai b́ kịp. Mỗi khi Bụt dạy điều ǵ mà có
mặt sư huynh Ananda th́ những lời Bụt dạy
không rơi rớt đi đâu cả. Khi trùng tuyên
lại những điều Bụt dạy th́ sư huynh
Ananda trùng tuyên không sót một câu hoặc một tiếng, v́
vậy, nếu được làm thị giả cho
Bụt, sư huynh sẽ có dịp nghe hết những
điều Bụt nói, dù là nói cho một đám đông
hoặc là nói cho một người, và sư huynh sẽ ghi
nhận được những điều đó. Lời
dạy nào của Bụt cũng quư hóa không cùng, do
đấy chúng ta phải làm đủ mọi cách
để gặt hái và bảo tŕ tất cả những
điều người giáo huấn. Trong hai
mươi năm qua, chúng ta đă dại dột để
rơi rớt và mất mát rất nhiều điều
Bụt dạy. Vậy sư huynh Ananda
nên v́ chúng ta và v́ các thế hệ tương lai mà nhận
lấy trách nhiệm làm thị giả cho Bụt.
Các vị khất sĩ có mặt trong buổi họp
đều tán đồng ư kiến của đại
đức Sariputta. Đại
đức Ananda có vẻ ngần ngại.
Đại đức nói:
- Tôi thấy có nhiều điều bất tiện nếu
các sư huynh cử tôi làm thị giả cho Bụt. Không
chắc rằng Bụt đă bằng ḷng cho tôi làm thị
giả, nếu chịu khó nhận xét, chắc các sư
huynh cũng đă thấy rằng Bụt đă rất
cẩn thận để khỏi mang tiếng là có con
mắt đặc biệt với những người
trong thân tộc Sakya. Đối với nữ khất
sĩ Mahapajapati, vốn là d́ mẫu của người mà
người cũng rất cứng rắn, c̣n Rahula th́
từ ngày được làm sa di, không bao giờ chú
được ngủ trong tịnh xá của Bụt hay
ngồi ăn cơm riêng với Bụt. Tôi cũng thế,
tôi cũng không bao giờ được Bụt cho thân
cận một cách quá đáng, với lại tôi cũng không
dám thân cận với Bụt một cách quá đáng. Tôi
cũng ngại các huynh đệ nói ra nói vào, cho là tôi thóc
mách, và cho rằng v́ tôi thóc mách cho nên Bụt mới
thỉnh thoảng gọi các huynh đệ lên để mà
răn dạy.
Nói tới đó, đại đức
ngửng lên nh́n đại đức Sariputta:
- Đối với sư huynh Sariputta, Bụt có một cái
nh́n đặc biệt, bởi v́ sư huynh là người
thông minh và tài giỏi vào bậc nhất trong số chúng ta.
Sư huynh đă là một người phụ tá rất
đắc lực cho Bụt trong việc dạy dỗ
cũng như trong việc tổ chức, và cố nhiên là
Bụt có đặt niềm tin lớn nơi sư huynh. Cũng v́ vậy mà sư huynh đă bị
nhiều huynh đệ ghen ghét. Tôi thấy khi
quyết định có điều ǵ, Bụt thường
hỏi ư kiến của nhiều người, chứ không
phải là chỉ hỏi ư kiến một sư huynh Sariputta.
Vậy mà có những huynh đệ dám nói là những
quyết định ấy là những quyết định
của Sariputta chứ không phải thật sự là
những quyết định của Bụt. Làm như
Bụt là người không có trí óc suy xét để đi
tới được những quyết định quan
trọng. Tôi thấy đó là một tội tăng
thượng mạn rất lớn. Tôi
ngần ngừ không muốn vâng lời các sư huynh là v́
thế.
Đại đức Sariputta cười:
- Tôi th́ tôi không ngại khi có huynh đệ nào hiểu
lầm tôi mà tỏ vẻ ganh ghét. Tôi nghĩ là khi nhận
thấy điều ǵ thật sự có lợi lạc, ḿnh
phải có can đảm làm theo; dù ai nói
ngửa nói nghiêng ḿnh cũng không nên v́ vậy mà thối chí.
Sư huynh Ananda! Chúng tôi biết sư huynh là người có
ư tứ lắm, nhưng chúng tôi nghĩ là nếu sư huynh
không nhận lời yêu cầu của anh em th́ đạo
pháp sẽ rất bị thiệt tḥi, cho thế hệ hiện
tại và nhiều thế hệ về sau.
Đại đức Ananda im lặng hồi
lâu không nói ǵ. Cuối cùng thầy lên tiếng:
- Tôi sẽ vâng lời các sư huynh để làm thị
giả thường xuyên cho Bụt, nếu các sư huynh có
thể bạch với người chấp nhận
những điều mà tôi yêu cầu sau đây. Thứ nhất là xin Bụt đừng cho tôi y áo
mà người ta cúng dường người. Thứ
hai là xin Bụt đừng cho tôi những thức ăn mà người ta đem đến cúng
dường người. Thứ ba là xin
Bụt đừng cho tôi ở cùng trong một tịnh
thất với người. Thứ tư là xin
Bụt đừng cho tôi đi theo khi có
một thí chủ thỉnh người thọ trai. Thứ năm là xin Bụt biết là Bụt có
thể cùng đi với tôi khi tôi được một thí
chủ thỉnh tới thọ trai. Thứ
sáu là xin Bụt cho tôi có quyền tiến dẫn hoặc
từ chối những người muốn
được diện kiến với người.
Thứ bảy là con Bụt cho tôi được hỏi
lại người mỗi khi có điều ǵ người
nói mà tôi chưa hiểu. Thứ tám là xin
Bụt lặp lại cho tôi đại ư những bài pháp
thoại mà v́ bất đắc dĩ tôi không có mặt
để nghe.
Đại đức Upali góp ư:
- Những điều sư huynh Ananda đưa ra
đều là chính đáng, tôi chắc những điều
ấy sẽ được Bụt chấp nhận. Duy có
điều thứ tư tôi thấy chưa ổn, nếu
sư huynh không đi theo Bụt khi có thí
chủ thỉnh Bụt tới thọ trai th́ làm sao sư
huynh được nghe những lời Bụt dạy
vị thí chủ? Sư huynh không được nghe th́ làm
sao sư huynh có thể trùng tuyên lại những lời
ấy cho chúng tôi nghe, trong trường hợp những
lời ấy là những lời mới lạ rất quư
báu? Tôi đề nghị như sau: mỗi khi Bụt
được cung thỉnh, ngoài sư huynh ra, nên có một
huynh đệ khác cùng đi, như vậy sư huynh tránh được
miệng thế gian là nhờ nương vào Bụt mà
sư huynh thường có thức ăn ngon.
Ananda cười:
- Điều sư huynh nói đó cũng chưa ổn. Trong
trường hợp thí chủ chỉ đủ sức
cúng dường cho hai người mà thôi, th́ sao?
- Th́ hôm ấy Bụt và hai sư huynh ăn ít lại
một chút chứ sao.
Các thầy cùng cười rộ lên một
cách vui vẻ.
Vấn đề thị giả giải quyết xong, các
thầy bàn tới chuyện thỉnh Bụt an
cư hàng năm tại Savatthi.
Savatthi hiện có tới hai tu viện lớn cho nam
giới, tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc và tu
viện Lộc Mẫu.
Ngoài ra c̣n có một tu viện cho ni
giới. Nên lấy Savatthi làm căn cứ hành đạo.
Ở những vương quốc lân cận ai muốn
gặp Bụt mà không biết người ở đâu th́
cứ về Savatthi trước mùa an cư là tự
khắc được gặp. Đó là cơ hội
đồng đều cho tất cả mọi
người. Các vị khất sĩ và nữ khất
sĩ từ các quốc gia khác có thể tới Savatthi an
cư mà không gặp trở ngại, v́ các đại thí chủ
lớn như Anathapindika và Visakha đă phát nguyện cung
cấp thực phẩm, thuốc men, y áo và chỗ cư trú
cho bất cứ vị khách tăng nào tới đây. Sau khi
kết thúc buổi pháp đàm, các thầy cũng đi
đến t́m Bụt tại tịnh thất của
người để tŕnh bày những ư kiến đă
được tổng hợp được.
Bụt chấp nhận hai đề nghị của các
vị cao đệ một cách hoan hỷ.
chương năm mươi ba
An Trú
Trong Hiện Tại
Mùa Xuân năm sau,
tại Kammassadhamma thủ phủ xứ Kuru thuộc vùng Tây
Bắc, Bụt nói kinh Niệm Xứ (Satipatthanasutta) cho
một thính chúng khất sĩ trên ba trăm người.
Đây là một kinh rất quan
trọng cho công phu tu tập thiền quán. Bụt nói phép quán
niệm xứ này là con đường có thể giúp
mọi người đạt tới sự thanh tịnh
hóa thân tâm, vượt khỏi sầu năo, diệt
được khổ ưu, thành tựu được
hiểu biết lớn và đạt tới tự do hoàn
toàn.
Nghe Bụt dạy xong kinh này, đại đức Sariputta
đă nói với đại chúng rằng đây là một
trong những kinh văn quan trọng vào bậc nhất, và
đề nghị tất cả các vị khất sĩ và
nữ khất sĩ ôn tụng kinh này cho thuộc ḷng
để mà hành tŕ theo.
Ngay tối hôm ấy, đại đức Ananda trùng tuyên
lại từng lời từng tiếng những
điều Bụt dạy. Niệm Xứ là an trú trong chánh
niệm. Theo phép tu này người hành giả ư thức
được những ǵ đang xảy ra trong các lĩnh
vực thân thể, cảm giác, tâm ư và đối
tượng tâm ư ḿnh. Ư thức ấy tức là chánh
niệm. Bốn lĩnh vực ấy là bốn lĩnh
vực quán niệm.
Trong lĩnh vực thứ nhất là thân thể,
người hành giả quán niệm về hơi thở
của ḿnh, về bốn tư thế của thân thể
ḿnh là đi, đứng, nằm, ngồi, về những
động tác của thân thể ḿnh như đi tới,
đi lui, nh́n, mặc áo, ăn, uống, đại tiểu
tiện, nói chuyện, giặt áo ... về những bộ
phận của cơ thể như tóc, lông, răng, gân, xương,
thận, tủy, ruột, nước miếng, mồ hôi,
v.v... về những yếu tố
tạo nên cơ thể như nước, sức nóng, không
khí, vật thể ... và về sự tàn hoại của
một tử thi từ khi nó trương phồng lên cho
đến khi xương cốt tan thành tro bụi. Quán
niệm về thân thể bằng cách phát khởi ư thức
về những hiện tượng thuộc về thân
thể. Ví dụ khi đang thở vào, hành giả biết
là ḿnh đang thở vào; khi đang thở ra, hành giả
biết là ḿnh đang thở ra; khi đang thở vào và làm
cho toàn thân an tịnh, hành giả biết là ḿnh đang
thở vào và làm cho toàn thân an tịnh. Khi đi, hành giả
biết là ḿnh đi, khi ngồi xuống, hành giả
biết là ḿnh đang ngồi xuống. Khi làm những
động tác như mặc áo, uống nước, hành
giả biết là ḿnh đang mặc áo, uống nước
v.v...
Như vậy công phu quán niệm về thân thể không
phải chỉ được thực hiện trong lúc
ngồi thiền mà phải được thực hiện
suốt ngày, ngay cả những lúc đi khất thực,
ăn cơm và rửa bát.
Trong lĩnh vực thứ hai là cảm giác, người
hành giả quán niệm về những cảm giác đang
phát sinh, tồn tại hoặc tàn hoại nơi ḿnh,
những cảm giác dễ chịu (lạc thọ), khó
chịu (khổ thọ) và những cảm giác trung tính
(xả thọ). Những cảm thọ ấy có thể có
nguồn gốc sinh lư hay tâm lư. Quán niệm cảm giác
bằng cách phát khởi ư thức về sự phát sinh,
tồn tại và hoại diệt của những cảm
giác ấy. Ví dụ khi đang bị nhức răng, hành
giả biết là ḿnh đang bị nhức răng, khi
đang sung sướng v́ được một
người khác khen ngợi, hành giả biết là ḿnh
đang sung sướng v́ được một
người khác khen ngợi. Hành giả c̣n quán chiếu
để an tịnh hóa những cảm giác của ḿnh và
để thấy rơ nguồn gốc phát sinh của mọi
cảm giác. Công phu quán niệm về cảm giác, do đó
cũng không phải chỉ được thực hiện
trong lúc ngồi thiền, trái lại, đây là một công
phu được thực hiện suốt ngày.
Trong lĩnh vực thứ ba là tâm ư, người hành
giả quán niệm về những trạng thái tâm lư
đang có mặt. Khi có tham dục, biết là có tham dục,
khi không có tham dục, biết là không có tham dục. Khi có
giận hờn, lầm lạc, biết là có giận
hờn hay lầm lạc, khi không có giận hờn hay
lầm lạc th́ biết không có giận hờn hay lầm
lạc. Khi tâm ư tập trung hay tán loạn, th́ biết là có
tập trung hay tán loạn. Những lúc tâm ư mở rộng,
khép kín, có giới hạn, cố định hay có giải
thoát th́ hành giả liền biết; không có th́ cũng
liền biết. Nói tóm lại, hành giả nhận diện
và có ư thức về tất cả những trạng thái tâm
ư có mặt trong giờ phút hiện tại.
Trong lĩnh vực thứ tư là đối tượng
tâm ư, người hành giả quán niệm về năm
trạng thái chướng ngại của giải thoát (tham
đắm, giận hờn, hôn trầm, kích thích và nghi
ngờ) mỗi khi chúng có mặt; về năm yếu
tố cấu tạo nên con người gọi là năm
uẩn (thân thể, cảm giác, tri giác, tâm tư và nhận
thức); về sáu giác quan và đối tượng
của chúng; về bảy yếu tố giác ngộ (chánh
niệm, trạch pháp, tinh tiến, hỷ lạc, khinh an,
định và hành xả) và về bốn sự thật là
khổ đau, nguyên do của khổ đau, sự giải
thoát khổ đau và con đường thực hiện
giải thoát. Tất cả những thứ ấy
đều là đối tượng của tâm ư. Vạn
pháp đều bao hàm trong những đối tượng
ấy.
Bụt chỉ dạy cặn kẽ về từng phép quán
niệm trong cả bốn lĩnh vực. Người
dạy tinh chuyên hành tŕ phép quán này trong bảy năm th́
chắc chắn sẽ đạt được giải
thoát. Người lại nói: có người có thể
đạt tới giải thoát trong bảy tháng, hoặc
nội trong bảy ngày, nhờ hành tŕ phép quán niệm này.
Trong một buổi pháp đàm, đại đức Assaji
cho biết đây không phải là lần đầu Bụt
dạy về bốn phép lĩnh vực quán niệm.
Người đă dạy nhiều lần phép này rồi,
nhưng đây là lần đầu tiên người
tổng hợp lại những ǵ người đă
dạy về phép tu trong một bài giảng thật
đầy đủ, thật cặn kẽ. Đại
đức cũng đồng ư với đại
đức Sariputta là kinh này cần được tất
cả các vị khất sĩ học thuộc ḷng
để tụng đọc và hành tŕ.
Trở về tu viện Jetavana vào cuối xuân năm
ấy. Bụt độ được một tên sát nhân
nổi tiếng tên là Angulimala.
Một buổi sáng đi vào thành Savatthi khất thực,
Bụt có cảm tưởng đây là một thành phố
chết. Ngoài đường không có bóng người qua
lại. Hai bên đường không có nhà nào mở cửa.
Đứng hồi lâu trước một căn nhà nơi
đó người đă từng được cúng
dường, Bụt thấy cửa nhà hé mở,
người gia chủ chạy ra mời Bụt vào. Vào
tới nhà, người gia chủ khép cửa và cài then
lại.
Người ấy mời Bụt ngồi, và đề
nghị với Bụt ở lại thọ trai,
đừng nên đi khất thực nữa:
- Bạch sa môn, đi ra đường hôm nay nguy hiểm
lắm. Người ta cho biết tên sát nhân Angulimala đă
xuất hiện trong thành phố. Nghe nói nó đă hạ sát
rất nhiều người ở nhiều thành phố, và
sau khi hạ sát, nó lại c̣n chặt ngón tay của
người ta để xâu thành một tràng chuỗi và
đeo nó vào cổ. Cũng v́ vậy cho nên người ta
đă đặt cho nó cái tên Angulimala. Con nghe đồn
rằng nếu Angulimala giết được đủ
một trăm người và có được một
trăm lóng tay đeo vào cổ th́ nó sẽ thành tựu
được một quyền lực bùa chú ghê gớm
lắm. Có một điều lạ là nó giết
người mà không cướp giật của cải
của bất cứ ai. Con nghe nói là vua Pasenadi đă cho
điều động quân đội và cảnh sát bao vây
và truy nă nó.
Bụt hỏi:
- Tại sao chỉ có một tên sát nhân mà chính quyền phải
huy động cả binh đội và cảnh sát như
thế?
- Bạch sa môn Gotama, tên sát nhân này ghê gớm lắm. Vơ
nghệ nó rất cao cường, có khi ba bốn
người đàn ông gặp nó giữa đường
cũng không đủ sức đối địch
lại nó. Một số bị nó hạ sát và số c̣n
lại phải bỏ chạy tán loạn. Angulimala
thường trú ẩn trong rừng Jalini. Lâu nay không ai dám
đi qua rừng này cũng v́ thế. Có lần một toán
cảnh sát địa phương có trang bị đủ
khí giới đă đi vào rừng để lùng bắt
Angulimala. Toán này có đến hai mươi người.
Trong số đó chỉ có hai người sống sót
trở về. Cũng v́ vậy khi nghe tin nó xuất
hiện trong thành phố, dân chúng đều kinh hoàng. Không ai
buôn bán làm ăn ǵ được.
Bụt cám ơn vị gia chủ đă cho người
biết về Angulimala và từ giă ra đi. Người này
có ngăn cản Bụt nhưng không được.
Bụt nói Bụt phải thực hành phép tŕ bát khất
thực như mọi hôm, để giữ vững
niềm tin của mọi người.
Đang đi thong thả trong chánh niệm, Bụt bỗng
nghe tiếng chân một người chạy đuổi
theo ở phía sau. Bụt biết đó là Angulimala đang
chạy theo ḿnh, nhưng Bụt không hốt hoảng.
Người vẫn đi từng bước chậm răi,
an nhiên, ư thức được ǵ đang xảy ra trong tâm
ư và trong hoàn cảnh của ḿnh, và người nghe tiếng
của Angulimala gọi người từ phía sau lưng
vọng tới:
- Ông sa môn! Dừng lại!
Bụt không đứng lại. Bụt vẫn chậm răi
đi. Tiếng bước chân của Angulimala cho Bụt
biết là Angulimala đă ngừng chạy mà chỉ c̣n
rảo bước theo Bụt. Tuy đă năm mươi
sáu tuổi nhưng thính giác và thị giác Bụt c̣n bén
nhạy lắm và sức khỏe của Bụt vẫn
đầy đủ. Trong tay Bụt chỉ có một
chiếc b́nh bát mà thôi. Người mỉm cười
nhớ lại ngày xưa trong các vơ đường, khi c̣n
là thái tử, người là vơ sinh nhanh nhẹn nhất, và
chưa ai chạm được vào người. Bụt
biết Angulimala đă đuổi kịp người, và
Angulimala thế nào cũng có đeo khí giới, nhưng
người vẫn ung dung bước.
Angulimala đă rượt kịp Bụt và hiện đang
đi ngang hàng với Bụt. Bụt nghe anh ta nói:
- Ta đă bảo ông dừng lại, tại sao ông cứ
tiếp tục đi mà không chịu dừng?
Bụt vừa đi vừa đáp:
- Angulimala, ta đă dừng lại từ lâu rồi, chỉ
có anh mới chưa chịu dừng lại mà thôi.
Angulimala, giật ḿnh. Angulimala nín thinh không nói thêm ǵ
được bởi v́ anh ta quá ngạc nhiên.
Ông sa môn này nói cái ǵ lạ thế. Ông ta đă dừng
lại đâu nào. Rơ ràng là chân ông ta vẫn c̣n bước
đi, vậy mà ông ta lại nói rằng ông ta đă dừng
lại. Ta phải hỏi cho ra mới được.
Nghĩ như vậy, Angulimala phóng tới phía trước,
đứng chận đường đi của Bụt.
Bụt dừng lại. Người đưa mắt nh́n
Angulimala. Mắt ngài chiếu sáng như những ngôi sao.
Angulimala chưa bao giờ thấy ai trầm tĩnh như
thế, uy nghiêm như thế và thản nhiên đến
thế. Thường thường ai gặp Angulimala th́
nếu không sợ hăi bỏ chạy cũng mất đi ít
nhiều b́nh tĩnh. Vậy mà ông thầy tu này lại xem
ḿnh như một kẻ không ra ǵ. Hoặc giả ông ta
chưa biết ḿnh là ai cho nên ông ta không biết sợ
chăng? Không đúng, bởi v́ ông ta đă gọi ngay tên
Angulimala khi trả lời câu hỏi của ḿnh. Vậy th́
ông ta biết ḿnh là ai rồi. Biết ḿnh là một tên sát
nhân ghê gớm, vậy mà vẫn giữ được
sự điềm đạm, ung dung không hề tỏ
một vẻ ǵ sợ hăi, lại c̣n nh́n ḿnh bằng một
con mắt thật hiền ḥa.
Angulimala cảm thấy ḿnh không đối đầu
được cái nh́n của Bụt. Anh ta cất tiếng
hỏi:
- Sa môn, hồi năy ông nói ông đă dừng lại rồi,
trong khi chân ông vẫn bước, điều đó có
nghĩa là sao? Ông lại nói rằng tôi chưa chịu
dừng lại, điều này có nghĩa là ǵ? Ông nói cho tôi
nghe đi.
Bụt bảo:
- Angulimala, những hành động có thể gây đau
khổ cho các loài chúng sanh, ta đă dừng lại, và
dừng lại tự lâu rồi. Ta đă học
được hạnh bảo vệ sự sống, không
những của con người mà c̣n của tất cả
các loài sinh vật. Angulimala, trong các loài sinh vật, kể
cả loài người, loài nào cũng muốn sống,
sợ chết; v́ vậy ta phải có ḷng thương,
đem t́nh thương ấy mà bảo vệ sự
sống của muôn loài.
Angulimal la lớn như hét vào tai Bụt:
- Nhưng loài người có ai thương ta đâu,
tại sao ta phải thương loài người? Loài
người là một loài độc ác, gian trá, phản
bội, ta muốn tiêu diệt cho hết mới thỏa
được niềm uất hận của ta.
Bụt dịu dàng:
- Angulimala, ta biết rằng anh đă từng khổ
đau, và ta biết những kẻ đă làm khổ anh là
những con người. Angulimala, con người quả có
khi rất là độc ác. Ác độc v́ si mê, v́ hận
thù, v́ tham dục, v́ ganh tị, nhưng lại có khi rất
hiểu biết và rất từ bi. Anh đă từng
gặp một vị khất sĩ nào chưa? Vị
khất sĩ nào cũng đă phát nguyện bảo vệ
sự sống cho mọi người và mọi loài, vị
khất sĩ nào cũng đă phát nguyện diệt trừ
tham dục, hận thù và si mê. Ta biết có nhiều
người không phải là khất sĩ, nhưng vẫn
sống theo nếp sống hiểu biết và thương
yêu đó. Angulimala! Anh đừng vơ đũa cả
nắm, ở đời có người ác, nhưng cũng
có người hiền. Đạo lư của ta có công
năng chuyển hóa kẻ ác ra kẻ hiền. Hận thù là
con đường nên tránh. Anh đang đi trên con đường
ấy. Nên dừng lại đi thôi. Hăy chọn con
đường của tha thứ, của hiểu biết
và của t́nh thương mà đi.
Angulimala bị thu hút trong giọng nói đầm ấm mà
đầy t́nh thương của vị sa môn. Gan ruột
anh như bị ai xé nát và xát muối vào. Tuy nhiên đây là
lần đầu tiên mà anh cảm thấy ấm áp trong
ḷng.
Người đang đứng trước mặt anh
thật sự là v́ thương anh mà nói. Nơi con
người này quả không có hận thù, quả không có
sợ hăi, không có sự khinh ghét. Người này đă có
thể nh́n ḿnh như nh́n một con người. Hay chính
người này là sa môn Gotama, là người mà thiên hạ
đă ca tụng và tôn xưng là Bụt? Chắc là đúng
như vậy rồi. Chắc là hôm nay ḿnh gặp
người ấy rồi. Angulimala hỏi:
- Thầy có phải là sa môn Gotama đó không?
Bụt gật đầu.
Angulimala nói:
- Rất tiếc, thầy gặp tôi quá muộn. Tôi đă
đi quá xa trên con đường này rồi, bây giờ có
muốn dừng lại cũng không được.
Bụt bảo:
- Đừng nói thế, Angulimala, làm một việc lành th́
không bao giờ muộn cả.
- Việc lành ǵ đâu nào?
- Dừng lại trên con đường hận thù và
bạo động là việc lành lớn nhất trên
tất cả các việc lành. Angulimala! Biển khổ tuy
mông mênh, nhưng quay đầu lại là tự khắc
thấy được bờ bến.
- Sa môn Gotama ơi! Bây giờ tôi có muốn quay đầu
về cũng không c̣n kịp nữa. Người ta sẽ
không để cho tôi yên.
Bụt đưa tay ra nắm lấy tay Angulimala.
Người nói:
- Angulimala, ta sẽ bảo vệ cho anh, nếu anh phát
nguyện cải tà quy chánh và từ nay siêng năng học
đạo, sám hối lỗi lầm và bắt đầu
làm những công việc phục vụ cho người. Ta
thấy anh là kẻ thông minh, anh đă hiểu được
điều ta muốn nói. Thế nào anh cũng thành công trong
bước đường hướng thiện.
Angulimala quỳ xuống trước mặt Bụt. Anh
đưa tay cởi lưỡi dao to bản đeo bên
lưng, nâng nó lên trên hai tay rồi đặt nó xuống
đất, rồi Angulimala sụp lạy sát đất
dưới chân Bụt, ôm mặt mà khóc nức nở.
Một hồi lâu, anh nói:
- Con xin nguyện từ đây hối cải, bỏ ác làm
lành, quyết tâm theo Bụt để học hạnh từ
bi. Cúi xin Bụt chấp nhận con làm đệ tử
của người.
Vừa lúc ấy các đại đức Sariputta, Ananda,
Upali, Kimbila và nhiều vị khất sĩ khác xuất
hiện. Họ bao vây quanh Bụt và Angulimala. Thấy
Bụt an lành và Angulimala đă quy y, mọi người
đều lấy làm mừng rỡ. Bụt dạy Ananda:
- Ananda, hăy đưa cho ta một bộ y áo. Upali,
đại đức hăy làm lễ xuống tóc cho Angulimala
ngay tại đây. Sariputta thầy hăy ghé vào nhà trước
mặt mượn con dao cạo tóc.
Ngay tại chỗ, Angulimala được làm lễ
thế phát, đọc ba lời quay về nương tựa,
tiếp nhận các giới pháp do đại đức
Upali trao truyền. Lễ thế phát cử hành xong, mọi
người lập tức theo Bụt trở về tu
viện Jetavana.
Trong mười hôm liên tiếp, Angulimala được
đại đức Upali hướng dẫn về
giới luật và đại đức Sariputta chỉ
dạy về giáo lư và những phép thiền tọa,
khất thực, thiền hành. Angulimala nỗ lực
học hỏi và thực tập như chưa có ai từng
học hỏi và thực tập như vậy.
Nửa tháng sau, khi đến thăm Angulimala tại
tăng xá, Bụt cũng phải ngạc nhiên. Angulimala
đă hoàn toàn lột xác. Bây giờ đây Angulimala đă
trở nên một vị khất sĩ có tướng
tụng và dung mạo rất uy nghi và đẹp đẽ.
Bây giờ trong tu viện ai cũng gọi Angulimala là đại
đức Ahimsaka. Tên này vốn là tên thật của
Angulimala ngày trước, có nghĩa là bất bạo
động hay bất hại. Svastika nghĩ rằng danh
hiệu này rất hạp với vị đại
đức mới, bởi v́ theo Svastika ngoài Bụt không ai
có vẻ hiền lành như thầy Ahimsaka bây giờ.
Sáng hôm sau, Bụt đi vào thành Savatthi khất thực
với khoảng năm mươi vị khất sĩ,
trong đó có đại đức Ahimsaka. Vừa
đến cửa thành, Bụt gặp vua Pasenadi và các
tướng lănh đang điều động quân
đội và cảnh sát. Quốc vương cũng
đang mặc quân phục như các vị chỉ huy quân
đội khác, lưng đeo trường kiếm,
ngồi trên lưng ngựa. Thấy Bụt, vua xuống
ngựa, tiến đến vái chào, Bụt hỏi:
- Đại vương! Có biến cố ǵ mà đại
vương và các vị tướng soái phải
điều động quân đội để đánh
dẹp? Có nước láng giềng nào đang gây hấn
ở biên giới chăng?
Vua đáp:
- Thế Tôn! Không có nước láng giềng nào định
đến đánh chiếm Kosala cả. Trẫm
điều động quân đội và cảnh sát là
để vây bắt tên sát nhân Angulimala. Tên tướng
cướp này ghê gớm lắm. Chưa có một lực
lượng nào đă có thể vây bắt và trừng
trị được nó. Trẫm được báo cáo là
Angulimala đă xuất hiện trại thủ đô Savatthi
từ hơn nửa tháng nay. Dân chúng thủ đô đang
mất tinh thần mà các lực lượng cảnh sát
vẫn chưa t́m ra được nó.
Bụt hỏi:
- Tên sát nhân Angulimala lợi hại đến thế sao?
Vua đáp:
- Thế Tôn chưa biết, chứ Angulimala là một
mối họa lớn cho mọi người. Trẫm
phải t́m đủ cách để bắt giết cho
được nó. Angulimala là một tên sát nhân vô cùng nguy
hiểm.
Bụt hỏi:
- Nhưng giả dụ tên sát nhân đó cải tà quy chánh,
phát nguyện suốt đời giữ giới không sát
sinh, sống đời xuất gia đạm bạc, tôn
trọng sự sống của muôn người và của
mọi loài chúng sanh khác, th́ bệ hạ có cần t́m
bắt giết nó nữa không?
- Thưa Thế Tôn! Nếu Angulimala mà theo Bụt xuất
gia, giữ giới bất sát, sống đời phạm
hạnh thanh cao như các vị khất sĩ ở đây
th́ trẫm vui mừng xiết bao! Không những trẫm
đă không bắt giết mà c̣n tới đảnh lễ và
cúng dường y áo, thực phẩm và thuốc men cho, y
như trẫm đă từng cúng dường Thế Tôn và
các vị đại đức ở tu viện Jetavana
vậy, nhưng chuyện này chắc chẳng bao giờ
xảy ra đâu, bạch Thế Tôn!
Bụt đưa tay chỉ vào đại đức
Ahimsaka đứng sát sau lưng người và nói với
vua:
- Đại vương, đây là Angulimala đă
được trao truyền giới pháp xuất gia và
đă trở nên một vị khất sĩ sống
đời phạm hạnh từ nửa tháng nay.
Quốc
- Đại vương đừng sợ, khất sĩ
Angulimala bây giờ hiền hơn cục đất. Bây giờ
mọi người gọi vị khất sĩ này là
đại đức Ahimsaka.
Vua nh́n đại đức Ahimsaka trong một giây, và
từ từ tiến tới trước mặt
đại đức. Vua chắp tay xá thầy. Vua hỏi:
- Bạch đại đức, ngài xuất thân từ gia
đ́nh nào? Thân phụ ngài tên ǵ?
- Tâu đại vương, thân phụ tôi tên là Gagga, thân
mẫu tôi tên là Mantan!.
- Xin đại đức Gagga Mantanniputta nhận nơi
đây niềm thành kính của trẫm và xin đại
đức cho phép trẫm cúng dường ngài y áo, thực
phẩm và thuốc men.
Đại đức Ahimsaka đáp lễ:
- Tâu đại vương, tôi đă có đủ ba y áo;
thực phẩm th́ mỗi ngày đều có thí chủ cúng
dường trong giờ đi khất thực, c̣n thuốc
men th́ hiện giờ tôi không cần đến, xin tạ
ơn đại vương.
Vua cúi đầu chào đại đức một lần
nữa rồi trở về đứng trước
mặt Bụt. Vua làm lễ Bụt và nói:
- Bạch đức Thế Tôn, đạo đức
của người thật là mầu nhiệm. Thế Tôn
dập tắt được những ǵ rất khó dập
tắt, an ổn được những ǵ rất khó an
ổn, điều phục được những ǵ
rất khó điều phục. Những ǵ không giải
quyết được bằng binh lực và bạo động,
Thế Tôn đă giải quyết được bằng
đức độ của người. Trẫm xin ghi
ơn đức Thế Tôn, bây giờ trẫm xin từ
giă.
Vua từ giă Bụt và các vị khất sĩ. Ngay sáng hôm
đóm các đơn vị quân đội và cảnh sát
được lệnh trở về vị trí cũ.
hết
phần 15 , xem tiếp phần 16