Thích
Nhất Hạnh
Đường
Xưa Mây Trắng
chương năm mươi tám
Con Gái Đắt Giá Hơn Con Trai
Một hôm nọ
đi khất thực qua một xóm nghèo Bụt gặp
một đám thiếu nhi đang chơi giữa
đường. Các bé đang xúm nhau xây một thành phố
bằng đất và cát. Chúng xây thành vua, kho lúa, nhà cửa
và đào một con sông chảy qua thành phố. Bọn
nhỏ đông có đến mười lăm đứa.
Bụt và đoàn khất sĩ dừng lại. Một em
bé, chừng như là đầu đàn của tất
cả bọn nhỏ, nói:
- Có Bụt và các vị khất sĩ đi ngang qua thành
phố chúng ta. Chúng ta phải cúng dường người
và các vị đệ tử của người mới
được.
Bọn trẻ nhao nhao hỏi:
- Chúng ta lấy ǵ mà cúng dường Bụt? Người
lớn mới có thể cúng dường chứ chúng ta là
con nít mà cúng dường sao được?
Em bé kia trả lời:
- Tại sao chúng ta lại không có thể cúng dường?
Này các bạn, trong kho lẫm nội thành có bao nhiêu là thóc
lúa. Chúng ta hăy lấy thóc lúa trong kho ra mà cúng dường
Bụt và tăng đoàn.
Bọn nhỏ reo ḥ vang dậy. Chúng moi bụi cát trong kho
lúa của chúng ra và đặt bụi cát đó trên một
chiếc lá bàng. Em bé đầu đàn nâng chiếc lá bàng có
đựng bụi đất trên hai tay, quỳ xuống
trước Bụt và dâng lên Bụt những đất
bụi ấy. Bọn trẻ đều bắt
chước quỳ xuống, hướng về Bụt và
tăng đoàn mà chắp tay. Em bé đầu đàn nói:
- Dân chúng trong thành phố chúng con kính dâng lên Bụt và
tăng đoàn chút ít lúa gạo trong kho lẫm của chúng
con. Xin Bụt và tăng đoàn nhận cho.
Bụt mỉm cười. Người đưa tay xoa
đầu em bé và nói:
- Cám ơn các con đă cúng dường lúa gạo cho Bụt
và cho các thầy khất sĩ. Các con dễ thương
lắm.
Rồi người xoay lại nói với thầy Ananda:
- Ananda, thầy hăy nhận lấy bụi đất trong
chiếc lá bàng này rồi đem về ḥa với
nước và trét lên vách đất của tịnh thất
ta.
Thầy Ananda lĩnh mệnh, thu nhận vật cúng
dường của các bé. Bọn trẻ mời Bụt
ngồi trên một tảng dá dưới một cột cây
đa, rồi tất cả kéo tới quây quần xung quanh
Bụt. Ananda và các vị khất sĩ cũng xúm lại
gần.
Bụt kể cho bọn trẻ nghe chuyện tiền thân
Visvantara. Kiếp xưa, thái tử Visvantara là một
người giàu ḷng thương, luôn luôn bố thí tất
cả những ǵ ḿnh có cho những người nghèo
khổ túng thiếu, không tiếc bất cứ một
vật ǵ. Thái tử có một người vợ tên là Madri
rất hiền thục và đảm đang. Nàng biết
niềm vui của chàng là cứu giúp kẻ thiếu
thốn và v́ vậy nàng không bao giờ tỏ vẻ
nuối tiếc một thứ ǵ mà chồng đem cho. Hai
người sinh được hai đứa con, một
đứa trai tên là Jalin và một đứa gái tên là
Krishnajina. Vào những năm đói kém hoàng tử
được phép vua cha cho lấy lương thực và
vải vóc trong kho để phát tặng cho những
người đói rét. Các kho lẫm v́ thế cạn
dần. Một vài vị quan trong triều thấy thế
t́m cách chận thái tử lại. Một hôm họ tâu vua là
thái tử làm sạt nghiệp quốc gia và nhân dịp thái
tử lỡ cho mất của triều đ́nh một con
voi quư, họ đề nghị đày thái tử tới
một nơi hẻo lánh trên núi Jayatura để thái tử
học sống cuộc đời nghèo khổ và
đạm bạc. Bị áp lực của các quan, vua cha
nghe lời. Vợ chồng và hai đứa con v́ vậy
phải lên đường đi đày biệt xứ.
Giữa đường có người nghèo ghé tới xin
bố thí. Thái tử cởi chiếc áo quư đang mặc mà
cho. Khi có những người nghèo khác tới xin, vợ
thái tử cởi chiếc áo đẹp bên ngoài của nàng,
và khi có những nghèo khác tới nữa. Jalin và Krshjina
lại cởi áo và những đồ trang sức để
tặng. Đi mới được hai phần ba
đường mà thái tử và gia đ́nh đă cho hết
tất cả những ǵ có giá có thể bán được
để mua gạo. Cuối cùng, họ phải cho luôn
chiếc xe và hai con ngựa. Thái tử ẵm Jalin, Madri
ẳm Krishjina; họ đành ḷng đi bộ tới xứ
Jayatura để sống thời gian lưu đày của
ḿnh. Không c̣n của cải ǵ nhưng họ vẫn vui,
vẫn hát, v́ ḷng họ thanh thản. Họ biết họ
đă cho người khác những niềm vui.
Thái tử và vợ đi măi dến khi chân họ
rướm máu và chai đi th́ mới tơi nơi. Đó là
một ngọn núi và những khu rừng rậm. Leo lên núi
họ t́m thấy một túp lều bỏ không. Túp lều
mà chắc ngày xưa đă có một vị đạo
sĩ cư trú để tu hành. Hai vợ chồng sửa
sang quét dọn túp lều, bứt tranh bứt lá lót
giường cho bốn người, và nghĩ đến
việc đi t́m thực phẩm. Hai người
người đi t́m các loại trái cây và các loại rau lá
mọc hoang trong rừng có thể ăn được. Hai
đứa bé cũng được dạy dỗ cách
đi t́m trái cây, hái rau, giặt áo và phơi áo bên bờ
suối, gieo hạt và làm vườn. Ngoài ra các bé c̣n
được học chữ nữa. Họ dùng lá kè và
viết chữ bằng một cái gai nhọn.
Họ sống đơn giản như thế trên núi
được ba năm, và cuộc sống rất vui
tươi, nhưng có một hôm nọ, trong khi Visvantara và
Madri đang đi hái trái cây trong rừng th́ ở nhà có
người tới bắt cóc mất hai đứa
trẻ. Khi về nhà không thấy hai con, hai vợ chồng
hoảng hốt đi t́m. Họ đi khắp núi rừng
và khi không thấy con, họ t́m về phố chợ. Hai
tháng trôi qua nhưng họ vẫn không t́m được
con. Họ trở về túp lều một lần nữa,
hy vọng các con đi đâu lạc đă trở về.
Về tới nhà, họ gặp sứ giả của vua
cha. Vua cha triệu hai vợ chồng về. Sứ giả
cho biết là Jalin và Krishnajina đă về tới trong hoàng
cung và đang sống với ông nội.
Hai người mừng rỡ hỏi thăm. Sứ
giả nói:
- Một hôm nọ có người đem bán hai đứa bé
ngoài chợ kinh đô. Có một bà mệnh phụ đi
chợ nhận ra hai đứa này là con của thái tử
Vivvantara. Bà liền về báo cho chồng biết. Vị
quan này tức tốc ra chợ. Ông bảo người kia
rằng nếu đem hai đứa trẻ vào cung bán th́
sẽ được giá rất cao, và ông tiến dẫn
người bán vào cung.
Thấy hai đứa nhỏ, dù áo quần tả tơi và
mặt mày lem luốc, vua cha cũng giật ḿnh nhận ra
cháu ḿnh. Vua bàng hoàng. Ḷng nhớ thương con cháu sống
dậy mănh liệt nơi vua. Vua truyền:
- Nhà ngươi t́m được hai này ở đâu
thế? Bán mỗi đứa bao nhiêu?
Người kia chưa kịp tâu bày ǵ th́ vị đại
thần đă lên tiếng:
- Tâu hoàng thượng, đứa con gái bán giá một ngàn
lượng vàng và một ngàn con ḅ, c̣n đứa trai bán giá
một trăm lượng vàng và một trăm con ḅ.
Mọi người, kể cả hai đứa trẻ,
đều ngạc nhiên. Vua hỏi:
- Tại sao con gái lại bán đắt hơn con trai?
Vị đại thần nói:
- V́ hoàng thượng quư con gái hơn con trai. Các công chúa không
bao giờ bị hoàng thượng trừng phạt và la
rầy, cả đến những cung nhân trong cung cấm
cũng được đối đăi thật tử
tế. Hoàng thượng chỉ có một đứa con
trai duy nhất mà hoàng thượng lại đày lên núi xa
ở với cọp beo, phải đi hái trái rừng
để ăn và để nuôi con. Như vậy con gái
không đắt hơn con trai là ǵ?
Vua rơi nước mắt:
- Thôi khanh đừng nói nữa, trẫm đă hiểu rơ
rồi.
Vua hỏi người kia gặp hai đứa trẻ
ở đâu. Người kia trả lời là đă mua
chuộc hai được hai đứa bé từ một
miền núi xa xăm. Vua ban tiền bạc cho người
ấy và ra lệnh cho người này cộng tác với
thám tử của vua truy nă người đă bắt cóc
trẻ em đem đi bán.
Rồi vua gọi hai cháu lên và ôm vào ḷng. Vua hỏi thăm
về cuộc sống trên núi. Sau đó, vua lập tức
ban chiếu chỉ triệu vợ chồng thái tử
về.
Từ đó về sau, vua rất cưng chiù thái tử và
c̣n làm hết sức ḿnh để giúp thái tử có thêm lúa
gạo và vải vóc để chia tặng cho những
người nghèo khổ.
Bọn trẻ
- Thái tử Visvantara t́m thấy niềm vui khi chia xẻ
những ǵ ḿnh có với những kẻ khác. Này các con,
hồi năy các con chỉ cho ta một ít bụi đất
trong kho lẫm của các con mà ta cũng đă rất vui
rồi. Các con nên biết: mỗi ngày ta có thể đem
lại niềm vui cho kẻ khác bằng cách tặng cho
kẻ ấy một món quà. Món quá ấy không cần
phải mua. Khi các con hái một hông hoa bên bờ ruộng
đem về tặng cho cha mẹ là các con đă cho cha
mẹ các con một niềm vui rồi. Nói một câu
hiếu thuận hoặc dễ thương cũng là
một món quà quư giá. Ôm lấy cha mẹ mà nói rằng ḿnh
rất thương quư cha mẹ đă làm lụng khó
nhọc để nuôi ḿnh, đó cũng là một tặng
phẩm rất quư. Một cái nh́n, một sự săn sóc
nhỏ nhặt cũng đưa tới những niềm
vui. Đối với cô bác và bạn bè, các con cũng có
thể làm cho họ vui bằng những tặng phẩm
như thế. Bây giờ ta với các thầy phải
từ giă các con để tiếp tục đi khất
thực, nhưng ta sẽ nhớ măi những bụi
đất mà các con đă tặng cho ta trong ngày hôm nay.
Bọn thiếu nhi rất sung sướng được
gặp Bụt ngày hôm ấy. Chúng bàn nhau sẽ rủ các
bạn tới tu viện Jetavana để thỉnh
thoảng được nghe Bụt và các thầy kể
chuyện.
Mùa nắng năm sau, Bụt về Rajagaha. Thăm hỏi
và đạy dỗ đại chúng ở đây xong,
người lên núi Linh Thứu. Y sĩ Jivaka được
tin Bụt về Linh Thứu liền lên núi thăm
người. Rồi Jivaka thỉnh Bụt về
vườn Xoài của ông dăm bữa. Bụt nhận
lời. Thầy Ananda cũng đi theo Bụt.
Y sĩ có một vườn Xoài rất mát mẻ và xum xuê.
Xoài ở đây đă lên tới năm thứ tám. Jivaka
đă dựng một tịnht thất nhỏ để
Bụt ở. Hàng ngày ông đem thức ăn chay của ông
tự tay nấu để cúng dường Bụt.
- Lạy Bụt, có người đồn đăi rằng
các vị khất sĩ được phép Bụt cho ăn
mặn. Họ c̣n nói: sa môn Gotama cho phép giết thú vật,
để làm thức ăn cúng dường ông ta và các
vị khất sĩ học tṛ của ông. Có người
than thở: v́ sa môn Gotama mà dân chúng phải sát hại sinh
vật để làm thức ăn cho ông và cho đệ
tử ông. Bạch Thế Tôn, con thầy những lời
đồn đăi này không đúng, nhưng con muốn nghe
Thế Tôn trực tiếp nói về điều này:
Bụt nói:
- Này Jivaka, những ai nói rằng thầy cho phép giết sinh
vật để làm thực phẩm cho thầy và cho các
vị khất sĩ, những người ấy đă
không nói đúng sự thật. Jivaka, thầy đă từng
nói rơ nhiều lần: nếu một vị khất sĩ
thấy người ta giết thú vật để làm
thực phẩm cúng dường ḿnh, vị khất sĩ
ấy phải từ chối không được ăn.
Nếu không thấy mà chỉ nghe nói rằng người ta
đă v́ ḿnh mà giết thú vật th́ vị khất sĩ
cũng phải từ chối không được tiếp
nhận thực phẩm, và hơn thế nữa, dù không
thấy không nghe nhưng một khi đă nghi rằng
người ta có v́ ḿnh mà giết thú vật thi vị
khất sĩ cũng phải từ chối không
được ăn.
Jivaka, theo phép khất thực, người ta cho thức
ăn ǵ th́ phải nhận thức ăn ấy, nhưng
trong trường hợp đă thấy đă nghe và đă
nghi rằng người ta đă v́ ḿnh mà sát hại thú
vật th́ vị khất sĩ có quyền từ chối và
phải từ chối. Như thế mới nuôi
dưỡng và bảo vệ được ḷng từ bi
của ḿnh. Jivaka, những thí chủ nào Bụt, biết
Pháp và biết Tăng th́ mỗi khi sửa soạn vật
thực cúng dường họ đều dùng những
thức ăn chay tịnh. Trong trường hợp họ
không có sẵn các món chay họ mới chia xẻ cho các
thầy khất sĩ món mặn họ sẵn có mà thôi.
Những người lần đầu tiên cúng
dường các vị khất sĩ cũng không biết
rằng các thầy ưa thức ăn chay hơn thức
ăn mặn cho nên cũng chỉ cúng dường và san
sẻ những thức ăn họ sẵn có. Trong
trường hợp này, các vị khất sĩ có thể
thọ dụng thức ăn mặn, để khỏi
phụ ḷng thí chủ và cũng để thí chủ có
dịp kết duyên từ từ với đạo giải
thoát.
Jivaka, một mai kia, khi tất cả thiên hạ đều
biết rằng các vị khất sĩ không ăn thịt
thú vật bị giết v́ họ th́ thiên hạ sẽ không
cúng dường thịt cho các vị khất sĩ nữa.
Lúc ấy các vị khất sĩ sẽ ăn chay hoàn toàn.
Jivaka biện bạch:
- Con thấy ăn chay làm cho cơ thể nhẹ nhàng và ít
bệnh hơn ăn mặn. Thế Tôn, từ mười
năm nay, con đă ăn chay. Con nghĩ rằng ăn chay
vừa được khỏe mạnh vừa nuôi
dưỡng được ḷng từ bi. Hôm nay con rất
vui mừng được thầy chỉ dạy rơ ràng
về việc ấy.
Jivaka cũng tỏ ư khen ngợi Bụt về pháp chế
không ăn sau giờ ngọ và không ăn những thức
ăn cất giữ từ ngày hôm qua, trừ trong mùa
lạnh. Ông thấy những điều này rất hợp
với phép vệ sinh. Không ăn buổi chiều và
buổi đêm th́ vừa cảm thấy nhẹ nhàng
vừa có thêm th́ giờ tu tập. Thức ăn để
lại ngày hôm sau có thể bị hư và làm độc
hại cơ thể, nếu trời nóng quá.
Bụt khen ngợi Jivaka và ngỏ lời mời ông một
hôm nào về tu viện nói cho các vị khất sĩ nghe
về các phép vệ sinh của đời sống hàng ngày.
chương năm mươi
chín
Nhảy
Vườn Xoài
của y sĩ Jivaka rất rộng răi và thanh tịnh.
Rải rác trong vườn có những tịnh thất
nhỏ của các vị nữ khất sĩ.
Buổi chiều ấy, có một vị nữ khất
sĩ trẻ tên là Subha đến xin tham vấn Bụt.
Hồi sáng cô đă bị một thanh niên đón
đường và suưt bị thanh niên ấy xâm phạm
đến tiết hạnh. Ni
Hôm qua đi khất thực về ngang một khu hẻo
lánh, Subha bị một thanh niên đón đường.
Biết là ḿnh đang lâm vào t́nh trạng khó khăn, ni cô theo
dơi hơi thở để duy tŕ sự b́nh tĩnh. Nh́n
thẳng vào người thanh niên, cô hỏi:
- Thưa ông, tôi đâu có làm điều ǵ lầm lỗi mà
ông lại chặn đường tôi? Tôi chỉ là một
người xuất gia tu hành theo giáo pháp của Bụt.
Tại sao ông lại ngăn không cho tôi đi về tu
viện?
Người kia nói:
- Cô c̣n trẻ và đẹp lắm. Tại sao cô lại
đi hủy hoại đời ḿnh bằng cách cạo
đầu, mặc áo vàng và sống như những
người tu khổ hạnh? Này ni cô, đáng lư cái thân h́nh
xinh đẹp của cô phải được khoác lên
một chiếc sari lụa mua từ Kasi.Tôi chưa thấy
ai xinh đẹp bằng cô. Tôi muốn cho cô nếm mùi
dục lạc của thân xác. Cô đi với tôi đi.
Subha vẫn b́nh tĩnh:
- Ông đừng có nói bậy. Người tu hành đă
quyết t́m niềm vui nơi cuộc sống giải thoát
và giác ngộ. Năm thứ dục lạc chỉ
đưa tới tội lỗi và khổ đau. Ông hăy
tránh đường cho tôi đi. Tôi sẽ rất cảm
ơn sự hiểu biết của ông.
Người thanh niên kia nói:
- Cô có hai con mắt rất đẹp. Tôi chưa thấy
người đàn bà nào có đôi mắt đẹp như
cô. Tôi dại ǵ mà để
Và người thanh niên đưa tay ra định nắm
lấy cô.
Subha lùi lại một bước. Cô nói:
- Này ông kia, ông đừng chạm tới tôi. Ông
đừng chạm tới một người tu phạm
hạnh. Tôi đă chán ngấy đời sống dục
vọng và hận thù cho nên tôi muốn đi tu. Ông nói tôi có
hai con mắt đẹp. Thôi để tôi móc hai con mắt
của tôi đưa cho ông. Thà rằng tôi mù c̣n hơn là
để ông chạm tới.
Subha nói với giọng cương quyết. Người
thanh niên kia nao núng. Anh ta biết vị ni cô này có thể nói
và làm ngay. Anh ta lùi lại một bước.
Subha tấn công thêm:
- Ông đừng v́ dục vọng mà tạo nên tội ác.
Ông không biết đức vua Bimbusara đă ra lệnh
trừng phạt nặng nề những kẻ phạm pháp
hay sao. Chính tôi, tôi đă chứng kiến những tội
phạm bị hành xử. Nếu ông không tỉnh táo,
nếu ông xâm phạm tới phạm hạnh, và sanh
mạng của tôi, ông cũng sẽ bị bắt và hành
xử như những tội phạm ấy.
Người thanh niên tỉnh ngộ. Anh ta h́nh dung ra
được cảnh khổ do dục vọng điên
cuồng gây ra. Anh ta tránh sang một bên đường cho
Subha đi. Rồi anh nói vọng theo:
- Tôi xin lỗi sư cô. Tôi chúc sư cô tu hành cho tới khi
thành đạt.
Subha đi thẳng, không ngoái nh́n trở lại, ḷng dặn
ḷng sẽ tŕnh lên Bụt trường hợp ḿnh.
Sau khi nghe kể chuyện, Bụt khen ngợi niềm
quả cảm và sự thông minh của nữ khất
sĩ Subha. Người nói:
- Người con gái đi một ḿnh ở nơi vắng
vẻ th́ nguy hiểm lắm. Đó là một trong những
lư do tại sao ngày xưa tôi đă ngần ngại chưa
muốn cho giới nữ xuất gia. Này Subha! Từ hôm nay
trở đi, đi đâu vị nữ khất sĩ
cũng không được đi một ḿnh. Lội qua
một ḍng sông, đi vào thôn xóm, băng qua một cánh
đồng hay một khu rừng, vị nữ khất
sĩ không được đi một ḿnh. Ngủ cũng
vậy. Trong tu viện, trong tịnh xá, trong thôn lạc hay
dưới gốc cây, người nữ khất sĩ
không được ngủ một ḿnh. Phải ngủ
với một vị nữ khất sĩ khác để có
thể bảo vệ cho nhau.
Rồi Bụt quay lại nói với thầy Ananda:
- Ananda thầy nên ghi nhớ điều này và yêu cầu các
vị lănh đạo ni chúng đưa điều này vào
giới luật của các vị nữ khất sĩ.
Rời vườn Xoài của y sĩ Jivaka, Bụt lên
đường đi Nalanda. Cùng đi với người,
có rất đông các vị khất sĩ.
Bụt và các vị khất sĩ đi lặng lẽ và
trang nghiêm; ai nấy đều theo dơi hơi thở và nuôi
dưỡng chánh niệm.
Phía sau lưng các vị, có hai thầy tṛ vị du sĩ
Suppiyo cùng đi. Họ nói chuyện vang lên suốt cả
dọc đường.
Đệ tử của du sĩ Suppiyo là thanh niên Bramadatta.
Đề tài của câu chuyện là Bụt và giáo pháp
của người.
Du sĩ Suppiyo cố ư nói lớn để những vị
khất sĩ có thể nghe.
Tất cả những lời ông nói đều nhắm
tới sự kích bác Bụt và giáo pháp của người.
Trong khi đó th́ lạ thay, thanh niên Bramadatta lại hết
ḷng bênh vực cho Bụt và giáo pháp của người.
Branmadatta dùng những lư luận và h́nh ảnh rất khéo léo
để tán
Khéo léo đến nổi tất cả các vị khất
sĩ đi trước đó đều có cảm t́nh
với chàng.
Chiều hôm ấy Bụt ghé vào nghỉ đêm ở
Ambalatthika. Ambalatthika là một khu vườn rừng
rất sum sê và tốt đẹp, chỗ nghỉ mát
của gia đ́nh hoàng gia. Vua Bimbasara đă ngỏ ư là các
vị tu sĩ của bất cứ giáo phái nào nếu
cần sử dụng Ambalatthika th́ đều có quyền
sử dụng để nghỉ ngơi. Đêm đó hai
thầy tṛ du sĩ Suppiyo cũng nghỉ đêm tại
đấy.
Sáng hôm sau các thầy khất sĩ bàn tán với nhau về
thái độ hôm qua của hai thầy tṛ vị du sĩ.
Bụt nghe được những câu bàn tán ấy.
Người bảo:
- Này các thầy, khi nghe người ta công kích tôi, phỉ
báng tôi, công kích và phỉ báng giáo pháp và giáo đoàn khất
sĩ, các thầy đừng buồn, các thầy
đừng sinh ḷng công phẫn, tức tối hay phiền
muộn. Điều ấy có hại cho các thầy. Khi nghe
người ta khen ngợi tôi, khen ngợi giáo pháp và giáo
đoàn khất sĩ, các thầy cũng không nên mừng
rỡ, thích thú và măn ư. Điều này cũng có hại cho
các thầy. Thái độ đứng đắn là xét xem
những điều công kích ấy đúng hay sai, đúng
ở chỗ nào, sai ở chỗ nào. Có như thế quư
vị mới có dịp học hỏi để
đạt được nhiều tiến bộ.
Này các vị khất sĩ! Phần lớn là những
người khen ngợi Bụt, Pháp và Tăng là những
người chỉ thấy được những cái
đẹp cái hay nhỏ bé của giáo pháp và giáo đoàn thôi.
Như là nếp sống phạm hạnh, công phu tŕ
giới, đời sống đạm bạc, thái
độ thanh thản của chúng ta. Số người
thấy được cái cao siêu mầu nhiệm nhất
của giáo pháp mà đem lời ca ngợi th́ ít lắm.
Tôi muốn nói đến trí tuệ thực chứng
của đạo giác ngộ. Trí tuệ này siêu việt,
mỹ diệu, mầu nhiệm, vượt khỏi
tầm tư duy và ngôn ngữ của người
thường. Thấy được, hiểu
được và chứng được trí tuệ ấy
mới có thể biết và thấy được giá
trị thật của đạo giải thoát.
Này các vị khất sĩ! Trong thế gian có bao nhiêu
chủ thuyết và bao nhiêu luận chấp. Người ta
không ngớt công kích và căi vả nhau v́ sự khác biệt
của những chủ thuyết và luận chấp ấy.
Các vị khất sĩ, như tôi đă thấy và đă
nghe, đă có ít nhất là sáu mươi luận chấp làm
căn bản cho hàng ngàn chủ thuyết hiện giờ có
mặt trong các giới tư tưởng và tôn giáo. Các
vị nên biết rằng trước cái thấy của
đạo giác ngộ giải thoát, tất cả sáu
mươi hai luận chấp ấy đều có những
chỗ kẹt, đều có những chỗ sai lầm.
Hôm ấy Bụt nói kinh Phạm Vơng. Người phân tích
nội dung của cả sáu mươi hai luận chấp
và vạch ra những sai lầm của các luận chấp
này. Có mười tám luận chấp về quá khứ:
bốn chủ trương thuyết thường trú,
bốn chủ trương thuyết vừa thường
trú vừa vô thường, bốn chủ trương
thuyết hữu biên và vô biên, bốn chủ trương
thuyết ngụy biện và hai chủ trương
thuyết không có nhân quả. Có bốn mươi bốn luận
chấp về tương lai: mười sáu chủ
trương là c̣n tri giác sau khi chết, tám chủ
trương là không c̣n tri giác sau khi chết, tám chủ
trương là không phải c̣n cũng không phải không c̣n
tri giác sau khi chết, bảy chủ trương thuyết
đoạn diệt và năm chủ trương thuyết
hiện tại là niết bàn.
Tŕnh bày xong những sai lầm của sáu mươi hai
luận chấp, Bụt nói:
- Một người đánh cá giỏi khi quăng
lưới xuống hồ tôm được hết
tất cả tôm cá hồ vào trong cái màn lưới có
mắt lưới sít sao, ông ta nh́n những con tôm con cá
đang cố nhảy lên cao để rồi lại
rơi ḿnh vào trong lưới, và nói: “dù các ngươi
nhảy cao đến mấy các ngươi cũng vẫn
c̣n nằm trong lưới của ta”. Ông ta nói đúng. Hàng
trăm hàng ngàn học thuyết đang hiện hành và tranh
chấp lăng xăng trong giới triết học và tôn giáo
này đều nằm kẹt trong cái lưới của sáu
mươi hai luận chấp ấy, không thể nào
vượt thoát ra nổi. Các vị khất sĩ!
Đừng đi vào trong cái lưới mê hồn ấy
để mất hết th́ giờ và cơ hội tu
tập đạo giải thoát. Đừng đi vào cái
lưới của sự hư luận.
Này các vị khất sĩ! Tất cả những luận
chấp kia đều phát sinh do sự lừa gạt
của tri giác và của cảm thọ. V́ không tu tập
chánh niệm, v́ không quán chiếu nên người ta không
biết được chân tướng của tri giác và
cảm thọ, do đó đă bị tri giác và cảm
thọ lừa gạt. Nếu thấy được
nguồn gốc và bản chất của tri giác và cảm
thọ, người ta sẽ thấy được
tự tính vô thường và duyên sinh của sự vật,
người ta sẽ không bị vướng vào
lưới tham ái, lo âu, và sợ hăi, người ta sẽ
không bị vướng vào cái lưới của sáu
mươi hai luận chấp.
Hôm ấy đại đức Ananda đă nỗ lực
ghi nhớ hết những lời Bụt dạy. Thầy
đi bách bộ và thầm lặng trùng tuyên lại
những lời Bụt nói. Rồi thầy nghĩ: kinh này
quan trọng lắm. Ta sẽ đặt tên kinh này là kinh
Phạm Vơng. Phạm Vơng là cái lưới vĩ đại
thu tóm tất cả những chủ thuyết sai lạc
trong cuộc đời.
chương sáu mươi
Ngày Nào Đầu Tóc Cũng
Ướt
Bụt từ giă
vườn Ambalatthika. Người đi đến Nalanda.
Sau khi thăm viếng và giáo hóa tại đây, người
đi về Ampa.
Ampa là thành phố lớn nhất của xứ Anga; xứ
này nằm dưới quyền bảo hộ của vua
Bimbisara nước Magadha.
Dân cư ở đây đông đúc, ruộng đất
ở đây ph́ nhiêu, cây cỏ ở đây xanh tươi.
Bụt cư trú trong một khu rừng mát mẻ bên bờ
hồ Gaggara. Trong hồ, hoa sen nở thơm ngát.
Nghe Bụt tới, dân chúng lũ lượt đến
thăm người. Có một người trai trẻ ḍng
Bà la môn giàu có tên là Sonadanda, nổi tiếng thông minh xuất
chúng tại địa phương này, cũng có ư muốn
đi viếng Bụt. Những người Bà la môn khác
cố ư ngăn giữ không cho ông ta đi, bảo rằng
nếu Sonadanda tới thăm sa môn Gotama th́ gây uy tín cho
vị sa môn này nhiều quá. Sonadanda mỉm cười
trả lời rằng Bụt là nhân vật lỗi lạc,
trên đời chỉ có một, và nếu không đi
thăm người th́ thật là bỏ phí cơ hội
ngàn năm một thuở. “Ta phải đi để
học hỏi chứ. Để biết ta hơn sa môn
Gotama ở những điểm nào và sa môn Gotama hơn ta
ở những điểm nào”. Vừa nói, Sonadanda vừa
mỉm cười bí mật.
Nghe Sonadanda nói vậy hàng trăm người trí thức Bà
la môn khác cũng muốn xin đi theo. Người trí
thức này, theo họ nghĩ, sẽ không làm mất mặt
giới Bà la môn trước đám quần chúng đông
đảo đến viếng Bụt.
Sonadanda c̣n chưa biét mở đầu câu chuyện ra sao
cho thông minh, th́ Bụt đă ân cần hỏi:
- Các vị học giả trong giới Bà la môn hăy cho chúng tôi
biết đâu là những điều kiện cần
thiết để có thể thật sự là một
người Bà la môn chân chính. Quư vị nói đi và nếu
cần th́ nên viện dẫn kinh điển của quư
vị.
Sonadanda rất hoan hỷ, một vị Bà la môn đích
thực phải có đủ năm điều kiện sau
đây: thứ nhất là phải có dung sắc đẹp
đẽ, thứ hai là phải biết kỹ thuật
xướng tụng và chú thuật, thứ ba là phải có
huyết thống thuần túy trong bảy đời,
thứ tư là phải có đức hạnh, thư năm
là phải có tuệ giác.
Bụt hỏi:
- Trong năm điều kiện ấy, điều
kiện nào là căn bản? C̣n điều nào dù là không có
th́ người Bà la môn vẫn c̣n có thể đích thực
là một người Bà la môn?
Trả lời dần theo những câu hỏi của
Bụt, Sonadanda đi đến kết luận rằng hai
điều kiện sau chót hai điều kiện căn
bản của một vị Bà la môn đích thực,
Sonadanda công nhận rằng các điều kiện dung
sắc, kỹ thuật xướng tụng chú thuật và
huyết thống bảy đời không phải là
những điều kiện căn bản. Không có ba
điều kiện ấy nhưng nếu có các điều
kiện đức hạnh và tuệ giác th́ người ta
vẫn có thể là một vị Bà la môn đích thực
như thường.
Gần năm trăm vị Bà la môn có mặt đưa tay
phản đối Sonadanda. Họ kết tội Sonadanda
đă bị Bụt dùng hư luận đưa tới chỗ
chấp nhận lập trường của Bụt và
chối bỏ một điều kiện mà họ cho là
căn bản là điều kiện huyết thống.
Họ đă đặt hết niềm tin nơi sự
thông minh và tài mẫn tuệ của Sonadanda mà họ coi
như vị lănh đạo tinh thần của họ. Nay
Sonadanda công nhận lập trường của Bụt th́
họ mất mặt biết bao.
Bụt can thiệp:
- Này quư vị quan khách! Nếu quư vị có ḷng tin nơi
người lănh đạo của quư vị là Sonadanda, th́
quư vị im lặng đi để tôi tiếp tục
đối thoại với ông ta, c̣n nếu quư vị không
có ḷng tin ở ông ta, th́ quư vị xin ông ta im lặng đi
để tôi nói chuyện với quư vị.
Mọi người lặng thinh.
Sonadanda nói:
- Xin sa môn Gotama yên ḷng. Để tôi xin có đôi lời nói
với các bạn tôi.
Rồi Sonadanda quay lại với năm trăm vị Bà la
môn. Ông ta chỉ vào một thanh niên ngồi hàng đầu
và nói:
- Các bạn có thấy cháu tôi, vị thanh niên Bà la môn tên là
Angaka đang ngồi kia không? Angaka là một người
thanh niên tuấn tú, khôi ngô, có phong thái tranh nhă và thanh cao.
Đứng về phương diện dung sắc, trong
chúng ta không ai so được với Angaka, trừ sa môn
Gotama ra mà thôi, Angaka lại thông hiểu ba bộ kinh Veda,
thông hiểu văn phạm, ngữ pháp và kỹ thuật
xướng tụng và chú thuật; điều này ai
cũng biết. Angaka cũng có huyết thống thanh tịnh,
cho đến bảy đời, kể cả về bên cha
lẫn mẹ. Angaka có đủ ba điều kiện là
dung sắc, kỹ thuật xướng tụng, chú
thuật và huyết thống thanh tịnh. Nhưng giả
sử Angaka sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối,
uống rượu, th́ dung sắc ấy c̣n có giá trị
ǵ? Kiến thức Veda và chú thuật c̣n có giá trị ǵ?
Thưa các bạn, hai điều kiện sau mới là hai
điều kiện căn bản của một
người Bà la môn đích thực. Đó là giới
hạnh và tuệ giác. Đây là sự thực chung cho
tất cả chúng ta chứ không phải là sự thực
riêng của sa môn Gotama.
Sonadanda nói đến đây th́ tiếng hoan hô của
quần chúng nổi lên vang dậy. Đợi cho tiếng
hoan hô chấm dứt.
Bụt hỏi Sonadanda:
- Nhưng trong hai điều kiện căn bản kia c̣n
lại là giới hạnh và trí tuệ, ta có thể bỏ
bớt một điều để giữ lại một
điều hay không?
- Thưa sa môn Gotama, không thể được, nhờ
giới hạnh tịnh nghiêm mà tuệ giác phát triển,
nhờ tuệ giác phát triển mà giới hạnh càng
tịnh nghiêm. Sa môn Gotama, cũng như lấy tay
để rửa tay, lấy chân để kỳ cọ
chân, hai thứ giới hạnh và tuệ giác nâng đỡ
và phát triển lẫn nhau; giới hạnh làm cho tuệ
giác thêm sáng và tuệ giác làm cho giới hạnh thêm thanh
tịnh. Giới hạnh và tuệ giác là hai cái quư nhất
trên đời.
Bụt nói:
- Hay lắm, Sanadanda! Những điều ông nói đúng là
sự thực. Giới hạnh và tuệ giác là hai cái quư
nhất trên đời. Ông hăy nói thêm đi. Làm thế nào
để phát triển giới hạnh và tuệ giác
đến mức độ cao nhất?
Sonadanda chắp tay xá Bụt, mỉm cười:
- Bạch sa môn, xin người chỉ dạy cho. Chúng con
chỉ biết nguyên tắc thế thôi. Sa môn là
người có thực tập và có chứng đắc. Xin
người giải bày cho chúng con rơ đâu là những
phương pháp có thể giúp ta phát triển giới
hạnh và tuệ giác đến mức viên măn.
Bụt bắt đầu dạy đạo giải thoát.
Người nói đến nguyên tắc tam học là
giới định tuệ. Có giới th́ có định, có
định th́ có tuệ, có tuệ th́ giới thể
vững vàng. Giới thể càng vững th́ định
lực càng lớn, định lực càng lớn th́
tuệ giác càng sâu. Người nói đến phép quán duyên
sinh để phát trừ những kiến chấp về
thường, về ngă, để cắt đứt
những sợi dây tham ái, hờn giận, si mê, để
đạt tới giải thoát và an lạc.
Sonadanda say sưa nghe Bụt nói. Khi Bụt dứt lời,
Sonadanda đứng dậy chắp tay:
- Sa môn Gotama! Con xin cám ơn sa môn đă mở mắt cho con
hôm nay. Những lời của sa môn nói đă có hiệu
lực đưa con ra khỏi vũng lầy tăm
tối. Con xin được quy y Bụt, quy y Pháp và quy y
Tăng để làm một kẻ môn đệ của
người. Con xin kính thỉnh Bụt và giáo đoàn ngày mai
tới nhà con thọ trai.
Cuộc đàm thoại hôm ấy giữa Bụt và giới
trí thức trẻ tuổi Bà la môn thật là hào hứng và
đă gây chấn động sâu xa trong mọi giới.
Những người trẻ tuổi trong giới Bà la môn
đi theo Bụt rất đông.
Sau đó ít lâu, một người thanh niên Bà la môn nổi
tiếng khác tên là Ambattha và thầy của
Tại công viên Ambalatthika, đại đức Svastika
đă có dịp gần gũi đại đức
Moggallana để hỏi thăm về các giáo phái hiện
đang thịnh hành nhất và đă được
đại đức nói cho nghe một cách sơ
lược về chủ trương của các giáo phái
ấy.
Trước hết là giáo phái của đạo sĩ Purana
Kassapa. Phái này chủ trương một thái độ hoài
nghi về luân lư, cho rằng ư niệm về thiện và ác
chỉ là nhận thức do thói quen và tập quán mà có.
Kế đến là giáo phái của đạo sĩ Makkhali
Gosala. Giáo phái này chủ trương thuyết tất nhiên,
cho rằng hành vi và vận mạng con người
đều do những quy luật vận hành tự nhiên
sắp đặt và con người không thể làm ǵ
hơn được. Nếu năm trăm hoặc
một ngàn kiếp sau mà con người được
giải thoát th́ đó cũng là do sự vận hành của
tự nhiên giới, chứ không phải v́ nỗ lực
của con người mà có giải thoát.
Thứ ba là giáo phái của đạo sĩ Ajita Kesakambati,
chủ trương một thuyết duy vật thuần
túy, cho rằng con người là do bốn yếu tố,
đất, nước, lửa và không khí tạo thành, và sau
khi chết th́ không c̣n ǵ nữa. Theo phái này, mục đích
của đời người là hưởng lạc trong
khi con người đang c̣n sống.
Giáo phái thứ tư do đạo sĩ Pakudha Kaccayana
cầm đầu, chủ trương ngược lại
thuyết của giáo phái của đạo sĩ Ajita. Giáo
phái này chủ trương thuyết bất diệt, cho
rằng tâm ta cũng như thân ta không bao giờ có thể
bị hủy diệt. Theo giáo phái này, có bảy yếu
tố làm nên con người, đó là đất,
nước, lửa, không khí, khổ, vui, và sinh mạng.
Sống và chết chỉ là hiện tượng bên ngoài do
sự kết hợp hay tụ tán của bảy yếu
tố ấy tạo nên, trong khi tự thân của bảy
yếu tố ấy là trường cửu và bất
diệt.
Giáo phái thứ năm do đạo sĩ Sanjaya Belatthiputta
thành lập.
Ngày xưa các đại đức Sariputta và Maha Moggallana
đă từng theo học với đạo sĩ này.
Đạo sĩ Sanjaya dạy thuyết thích ứng, cho
rằng chân lư tùy thuộc vào trường hợp, vào không
gian và vào thời gian. Có thể trong trường hợp
này, thời gian này này và địa phương này, một
điều nọ có thể là chân lư, nhưng trong
trường hợp khác, thời gian khác và địa
phương khác th́ điều đó có thể không c̣n là
chân lư. Nhận thức con người là thước đo
của muôn vật.
Giáo phái thứ sáu là giáo phái của đạo sĩ Nigantha
Nataputta. Các đạo sĩ trong giáo phái này thực hành pháp
khổ hạnh cực đoan, không mặc quần áo và
giữ giới bất sát một cách tuyệt đối.
Đạo sĩ Nigantha chủ trương một thứ
vận mạng luận có tính cách nhị nguyên, cho mạng
(jiva) và phi mạng (ajiva) là nền tảng cho vũ trụ
và sự sống. Thế lực của các du sĩ lơa h́nh
này trong xă hội khá lớn, và với đoàn khất sĩ
của Bụt, các du sĩ lơa h́nh đă có nhiều liên
lạc và tiếp xúc qua lại. Điểm tương
đồng căn bản giữa giáo đoàn du sĩ va giáo
đoàn khất sĩ là ư niệm tôn trọng sự
sống, nhưng giữa hai giáo đoàn có nhiều
điểm dị biệt. Có những vị trong giáo
đoàn Nigantha đă tỏ vẻ chống đối giáo
đoàn khất sĩ. Đại đức Moggallana
thường không chịu đựng được thái
độ quá khích của một số các vị du sĩ
lơa h́nh, và đă không ngần ngại nói lên cảm
tưởng ấy, v́ thế, đại đức
thường bị các vị du sĩ lơa h́nh chống
đối kịch liệt.
Về tới Savatthi, Bụt cư trú ở tu viện
Đông Viên, nơi có giảng đường lộc
Mẫu. Các giới đệ tử nghe Bụt về,
đến thăm người không ngớt. Một
buổi sáng, nữ thí chủ Visakha tới t́m Bụt,
đầu tóc và xiêm y ướt đẫm, Bụt
hỏi:
- Visakh, bà đi đâu về mà đầu tóc và xiêm y
ướt đẫm thế này?
- Lạy đức Thế Tôn, đứa cháu nội
của con mới chết. Con buồn quá đi t́m Bụt mà
quên mang theo cả dù, cả nón.
- Visakh, đứa cháu nội của bà lên mấy tuổi,
cháu ốm bệnh ǵ mà mất?
- Bạch Thế Tôn, nó mới có ba tuổi, nó bị
bệnh thương hàn.
- Tội nghiệp cháu. Này Visakha, bà có tất cả bao nhiêu
con và cháu?
- Bạch Thế Tôn, con có tới mười sáu đứa
con, chín đứa đầu đă lập gia đ́nh, và con
đă có tám đứa cháu, vừa nội vừa ngoại.
Bây giờ con chỉ c̣n có bảy đứa cháu, toàn là cháu
ngoại.
- Visakha, bà muốn có nhiều cháu lắm phải không?
- Vâng, bạch đức Thế Tôn, con muốn có thật
nhiều con và thật nhiều cháu. Nhà càng đông con cháu th́
lại càng vui.
- Này Visakha, nếu con cháu bà nhiều như dân số ở
thủ đô Savatthi này th́ chắc là bà vui lắm.
- Vâng, thưa đức Thế Tôn, con mà có được
nhiều con nhiều cháu như dân số ở Savatthi th́ c̣n
ǵ bằng.
- Visakha, bà biết mỗi ngày ở thủ đô Savatthi có
bao nhiêu người chết không?
- Thưa Thế Tôn, có ngày th́ mười người
chết, có ngày th́ chín người, tám người, bảy
người hay sáu người, ít nhất là một
người. Thế Tôn, ở Savatthi không có ngày nào là không có
người chết.
- Này Visakha, nếu con cháu bà đông đúc như dân cư
ở Savatthi th́ ngày nào mà tóc tai và áo quần của bà
lại không ướt đẫm như thế kia?
Visakha chắp hai tay lại:
- Thôi, thôi, con không muốn con cháu đông đảo như
dân số ở Savatthi nữa đâu. Con hiểu rồi.
Càng thương nhiều th́ càng bị ràng buộc
nhiều, càng bị ràng buộc nhiều th́ càng khổ
đau nhiều. Bụt đă dạy con điều này
nhiều lần, mà con cứ quên măi.
Bụt im lặng, mỉm cười.
Visakha nói:
- Thế Tôn, người thường du hành hóa độ
khắp nơi và chỉ về Savathhi vào trước mùa
mưa. Đệ tử chúng con nhiều khi nhớ Bụt,
lên tu viện thăm th́ ít khi được gặp
người. Mỗi khi chúng con đến, chúng cho nên
chỉ biết đi ṿng ba lần quanh tịnh thất
của người rồi đi về mà thôi.
Bụt dạy:
- Visakha, bà nên nhớ rằng việc tu học tinh tiến
theo giáo pháp cần thiết hơn việc thăm viếng.
Mỗi khi tới chùa, các vị đều có dịp nghe các
vị đại đức thuyết pháp để
học hỏi thêm giáo lư và để đem về thực
hành. Giáo pháp ấy chính là thầy đó. Đừng v́
sự vắng mặt của thầy ở tu viện mà xao
lăng việc tu học.
Đại đứa Ananda bạch:
- Con ư định là sẽ trồng một cây bồ
đề ngay trong tu viện. Mỗi khi các vị
đến thăm Bụt mà không có Bụt th́ có thể
đến thăm và làm lễ cây bồ đề. Như
vậy th́ cũng như làm lễ Bụt. Chúng con sẽ
đặt một pháp tọa bằng đá dưới
gốc bồ đề. Nếu các vị đệ tử
đem hoa tới cúng dường Bụt, các vị có
thể dâng hoa trước pháp tọa làm lễ, và đi
nhiễu ba ṿng xung quanh cây bồ đề để quán
niệm về Bụt.
Bà Visakha nói:
- Ư kiến của đại đức rất hay.
Nhưng biết lấy cây bồ đề con ở đâu
ra mà trồng?
Đại đức Ananda nói:
- Ta có thể đến xin hạt của cây bồ
đề ở thôn Uruvela, nơi Bụt thành đạo.
Visakha, bà đừng lo, tôi sẽ phụ trách về
việc lấy hạt, ươn hạt và trồng cây
bồ đề. Tôi sẽ trồng một cây ở tu
viện và một cây ngay ở đây.
Nữ thí chủ Visakha đă cảm thấy nhẹ bớt
trong ḷng. Bà lạy Bụt và đại đức Ananda
rồi ra về.
chương sáu mươi
mốt
Tiếng Gầm Của Sư
Tử Lớn
Mùa an cư an
năm nay, nhân một câu hỏi của đại
đức Ananda về đạo lư duyên sinh, Bụt đă
dạy các vị khất sĩ về mười hai nhân
duyên như là động cơ của guồng máy sinh
tử.
Ngưới bảo thầy Ananda:
- Đạo lư duyên sinh là đạo lư rất vi diệu và
thâm sâu. Các vị đừng nghĩ rằng có thể
thấu hiểu được hết chiều sâu của
đạo lư này bằng ngôn từ và lư luận.
Các vị khất sĩ! Ngày xưa thầy Uruvela Kassapa
nhờ được nghe đạo lư nhân duyên mà thấy
được và vào được chánh pháp. Ngày xưa
Sariputta cũng nhờ nghe được một bài kệ
về đạo lư nhân duyên mà hôm nay đă trở nên
một trong những khuôn mặt của chúng trung tôn.
Này các vị! Trong mỗi giây phút của cuộc sống
hàng ngày, các vị phải quán chiếu về tự tính
duyên sinh của vạn pháp. Nh́n vào một tờ lá hay
một hạt mưa, các vị phải tập thấy cho
được tất cả những điều kiện
gần xa đă đưa tới sự có mặt của
tờ lá ấy hay của hạt mưa ấy. Các vị
nên biết rằng thế giới được dệt
thành bởi những màn nhân duyên chằng chịt, cái
nầy có v́ cái kia có, cái nầy không v́ cái kia không, cái này sinh
v́ cái kia sinh, cái nầy diệt v́ cái kia diệt. Sự sinh
diệt của một pháp tùy thuộc vào sự sinh
diệt của tất cả các pháp. Sự sinh diệt
của tất cả các pháp tùy thuộc vào sự sinh
diệt của một pháp. Trong cái một có cái tất
cả, và trong cái tất cả có cái một.
Cái một tức là cái tất cả, cái tất cả
tức là cái một. Không có cái một th́ không có cái tất
cả, không có cái tất cả th́ không có cái một. Đây
là chỗ vi diệu của đạo lư duyên sinh. Nếu
quán sát cho thấu triệt tự tính của vạn pháp, các
vị sẽ vượt thoát ra ngoài cái lo và cái khổ
về sinh tử, nói một cách khác hơn là thoát ra
được ngoài ṿng sinh tử.
Các vị khất sĩ! Duyên khởi chằng chịt
nhiều tầng nhiều lớp, nhưng quư vị có
thể phân biệt bốn loại: đó là nhân duyên,
tăng thượng duyên, đẳng vô gián duyên và sở
duyên duyên.
Nhân duyên là điều kiện chính yếu gần nhất,
như hạt lúa là điều kiện chính yếu
để phát sinh ra cây lúa. Tăng thượng duyên là
những điều kiện phù trợ, như nắng,
mưa, hơi ấm, đất màu giúp cho hạt lúa
nảy mầm lớn lên thành cây lúa.
Đẳng vô gián duyên tức là sự tiếp nối không
gián đoạn của ḍng lưu chuyển. Thiếu sự
tiếp nối th́ sự trưởng thành của cây lúa
bị gián đoạn nửa chừng.
Sở duyên duyên là đối tượng của nhận
thức, bởi v́ nhận thức bao giờ cũng là
nhận thức một cái ǵ, nhận thức không rời
đối tượng nhận thức. Hạt lúa, cây lúa
và các điều kiện xa gần đưa tới sự
có mặt của cây lúa ... tất cả đều là
đối tượng của nhận thức, không
thể tách rời ra khỏi nhận thức. Tâm thức v́
vậy là một điều kiện căn bản của
hiện hữu.
Này các vị khất sĩ! Sở dĩ có khổ đau là
v́ có sinh tử. Tại sao có sinh tử? Tại v́ có vô minh.
Nếu các vị quán chiếu và thấy được
tự tính duyên khởi của vạn vật th́ các vị
sẽ tiêu diệt được vô minh. Tiêu diệt
được vô minh th́ siêu thoát được quan
niệm về sinh tử. Thoát được sinh tử th́
diệt được mọi khổ đau và lo âu.
Này các vị! Có tử là v́ có sinh, có sinh tử là v́ c̣n ư
niệm có ta, c̣n ư niệm có ta là v́ bị dính mắc,
bị dính mắc là v́ tham ái, tham ái là v́ không thấy
được tự tính của cảm giác, không thấy
được tự tính của cảm giác là v́ bị kéo
theo ḍng tiếp xúc giữa giác quan và đối
tượng, bị kéo theo ḍng tiếp xúc giữa giác quan và
đối tượng là v́ tâm tư không sáng suốt và an
tĩnh, tâm tư không sáng suốt an tĩnh là v́ tâm thức
hôn mê. Tâm thức hôn mê là v́ vô minh. Mười hai cái khoen
của ṿng xích ấy nối liền nhau, trong một cái có
cả mười một cái kia, thiếu một cái th́
mười một cái kia cũng không có. Tử, Sinh,
Hữu, Thủ, Ái, Thọ, Xúc, Lục nhập, Danh sắc,
Thức, Hành, và Vô minh là tên gọi của mười hai cái
khoen ấy.
Các vị khất sĩ! Vô minh là chất liệu căn
bản của cả mười hai nhân duyên. Nhờ quán
chiếu tự tính duyên sinh, ta lấy ánh sáng của trí
tuệ làm tan ră chất liệu vô minh đó và ta
vượt thoát được tất cả những lo
sợ đau buồn của sinh tử. Người phàm phu
bị nhận ch́m trong biển khổ sinh tử. Bậc
giải thoát cỡi trên những đợt sóng sinh tử
mà đi. Mười hai cái khoen của ṿng xích trở nên
mười hai cái bánh xe của một cỗ xe chở
người tới giác ngộ. Bậc giác ngộ sống
trên đời nhưng không bao giờ bị cuộc đời
làm cho ch́m đắm. Các vị khất sĩ! Các vị
đừng trốn chạy sinh tử, các vị chỉ
cần vượt thắng lên trên sinh tử mà thôi. Siêu
việt sinh tử, đó là chí khí của bậc đại
trượng phu.
Trong một buổi pháp đàm được tổ
chức sau đó mấy hôm, đại đức Mahakassapa
cho biết Bụt đă từng giảng dạy nhiều
lần về đạo lư nhân duyên, và đạo lư này có
thể coi như là trọng tâm của đạo giác
ngộ, và đại đức cho biết có lần
Bụt đă dùng h́nh ảnh một bó lau để làm ví
dụ. Người nói không có ai làm ra các nhân duyên cả mà
chính các nhân duyên tự làm ra nhau. Vô minh là ra hành và hành làm ra vô
minh, hành làm ra thức và thức làm ra hành. Cũng như
những cọng lau dựa vào nhau mà dứng, Một
cọng lau bị kéo qua một bên th́ cọng kia rơi
xuống. Vạn vật trong vũ trụ cũng vậy.
Một làm ra tất cả, và tất cả làm ra một.
Nh́n cho sâu, ta thấy cái một trong tất cả và ta
thấy tất cả trong cái một.
Cũng trong mùa an cư, Bụt bị một nhóm Bà la môn âm
mưu trả thù bằng cách vu cáo rằng người
đă ăn nằm với người đàn bà cho
đến khi người này có thai rồi bỏ.
Vụ âm mưu này được tổ chức rất
khéo léo. Những người chủ mưu đă t́m
được một cô gái trong giới Bà la môn sẵn sàng
cộng tác với họ. Cô này tên là Cinca, nhăn sắc khá
mặn mà. Những người chủ mưu đă than
thở với cô về sự sụp đổ của
niềm tin nơi đạo Bà la môn của giới trẻ
tuổi. Giới trẻ tuổi Bà la môn đă theo Bụt
nhiều quá, và trong số ấy có những người
rất xuất sắc. Một khi theo Bụt họ đă
không ngần ngại nói tới những cái mà họ cho là
sai lầm và hẹp ḥi trong đạo Bà la môn. Nóng ḷng v́
nền đạo đức của tổ tiên, cô Cinca nói
rằng cô có thể làm bất cứ ǵ để cứu
văn t́nh thế, và cô đă làm theo những lời chỉ
dẫn của những người chủ mưu.
Ngày nào cô cũng ăn mặc thật đẹp và đi
về tu viện Jetavana, trên tay luôn luôn có một bó hoa.
Nhưng cô không đi chùa vào giờ người khác đi
chùa. Cô chỉ tới chùa vào giờ những người
khác rời chùa để về nhà sau khi nghe thuyết pháp.
Ai hỏi đi đâu, cô chỉ mỉm cười mà không
nói. Có khi cô lại nói nửa úp nửa mở: “Tôi đi
đâu th́ đi, việc ǵ đến quư vị mà hỏi?”.
Thiên hạ lấy làm hồ nghi. Sau đó nhiều tuần
lễ, cô lại trả lời người ta như sau:
“Tôi đi thăm sa môn Gotama". Rồi mấy hôm sau, cô
lại nói: “Ngủ lại tu viện Jetavana thật là vui!”.
Những điều đó làm nhiều người chói tai,
nhưng cũng làm cho người sinh ra hoài nghi. Tuy nhiên
không ai phê phán ǵ. Cho đến một hôm, Cinca xuất
hiện trong một buổi thuyết pháp của Bụt.
Bụng của cô đă ph́nh lên khá lớn, Bụt đang
thuyết pháp nửa chừng th́ cô bước lên.
Trước mặt thính chúng đông đảo, cô nói
lớn:
- Sa môn Gotama! Ngài thuyết pháp rất là hay, và ngài là một
người có thế lực lớn, nhưng ngài không bao
bọc được cho một người đàn bà
yếu đuối đă v́ ngài mà bụng mang dạ
chửa. Đứa con trong bụng này là của ngài.
Nếu ngài không chịu nhận trách nhiệm làm cha nó th́ ai
nhận đây?
Thính chúng xôn xao, mọi người đưa mắt
hỏi nhau rồi nh́n lên Bụt. Bụt nói với Cinca,
miệng người mỉm cười:
- Này cô bé, chuyện này là thật hay giả th́ chỉ có cô
và ta biết rơ mà thôi.
Cinca hơi mất b́nh tĩnh, nhưng cô cố lấy
giọng rắn rơi:
- Đúng rồi, việc này có thật hay không có thật th́
chỉ có sa môn Gotama và tôi biết mà thôi.
Quần chúng không chịu đựng được sự
ngạc nhiên nữa. Nhiều người xô ghế
đứng dậy. Nhất là những người
ngồi phía sau. Cinca hoảng hốt, tưởng thiên
hạ đang lén tấn công ḿnh. Cô t́m cách thoát thân, cô
vụng về vấp phải một cái cột nhà, cô
gượng níu lấy cột nhà để đứng
dậy. Lúc đó có một sợi dây đứt và miếng
gỗ tṛn lép từ bụng cô rơi xuống, đánh
rầm một cái. Miếng gỗ khá nặng, miếng
gỗ dầy ở giữa nhưng có mép mỏng chung quanh.
Miếng gỗ rơi xuống trúng vào hai ngón chân của bàn
chân cô làm cô đau điếng. Cinca rú lên, cúi xuống ôm
lấy bàn chân. Cái bụng của cô bây giờ xép lẹp.
Quần chúng thở phào nhẹ nhơm. Nhiều người
phá lên cười ngặt ngoẻo. Có một ni sư
đứng dậy và tiến lên. Đó là ni sư Khema. Ni
sư bước tới, dịu dàng d́u Cinca ra khỏi
pḥng. Đợi cho hai người khuất bóng, Bụt
trở lại với bài thuyết pháp. Giọng nói của
người b́nh thản, như là vừa rồi chẳng
có chuyện ǵ quan trọng xảy ra.
Bụt nói:
- Đại chúng! Đạo lư giác ngộ có năng lực
công phá những thành tŕ kiên cố nhất của vô minh,
cũng như ánh sáng có năng lực làm tiêu tan bóng tối.
Những đạo lư như bốn sự thật, vô thường,
vô ngă, duyên sinh, bốn niệm xứ, bảy giác chi, ba cánh
cửa giải thoát và con đường tám sự chân chính
đă được tuyên thuyết trong nhân gian như những
tiếng gầm của một con sư tử lớn,
đẩy lui hàng trăm hàng ngàn tà thuyết và hư luận.
Này các vị, sư tử là vua của các loài thú. Khi nó ra
khỏi hang, con sư tử uốn ḿnh và vươn vai. Sau
khi uốn ḿnh và vươn vai, nó đưa cặp mắt
sáng nh́n ra bốn phía. Rồi nó gầm lên ba lần
tiếng gầm của loài sư tử. Sau đó nó mới
đi t́m mồi.
Này các vị, bất cứ loài thú nào trong rừng nghe
tiếng gầm của sư tử đều lấy làm
sợ hăi, có con núp kín, có con run rẩy, có con bỏ chạy,
có con rời ră cả tứ chi không c̣n biết làm ǵ nữa.
Chim bay lên cao, loài cư trú dưới nước như
thuồng luồng và cá sấu hấp tấp lội
xuống nước, chồn, cáo, và các loài ở hang chui
xuống hang sâu. Những con voi trong các làng xóm lân cận, dù
là voi của vua có trang sức dây nịt và lộng vàng,
đều hoảng sợ, tung bỏ tất cả những
đồ trang sức mà chạy, có khi văng cả phân và
nước tiểu. Con sư tử có uy lực lớn
như thế đó.
Đại chúng! Pháp âm của đạo giác ngộ cũng
giống như tiếng gầm của con sư tử! Pháp
âm giác ngộ được cất lên th́ tất cả các
tà thuyết đều run sợ. Các đạo lư vô
thường, vô ngă, duyên sinh ... một khi được
tuyên thuyết lên th́ tất cả những ai lâu nay
nương náu và cảm thấy an ổn trong vô minh và trong
quên lăng đều phải giật ḿnh. Loài người
cũng vậy mà loài trời cũng vậy. Khi bừng
tỉnh giấc mơ, mọi người thấy
được sự thật chói ḷa: “th́ ra lâu nay chúng ta
đang ôm lấy hiểm nguy, chúng ta đă nhận cái vô
thựng làm cái thường, cái vô ngă làm cái ngă, cái khổ
làm cái vui, cái tạm bợ làm cái vĩnh cữu, cái giả
làm cái thật. Đă đến lúc chúng ta phải phá tung
tất cả những màn lưới quên lăng và luận
chấp mà đi”.
Đại chúng! Các học thuyết của nhân gian
đều bị ràng buộc vào ư niệm có và không. Pháp âm
của đạo giác ngộ đưa nhân gian ra khỏi
màn lưới dầy đặc của muôn ngàn lư luận
ấy.
Đạo lư giác ngộ vượt thoát mọi ư niệm
có không. Mỗi khi có một bậc giác ngộ ra đời
là pháp âm giác ngộ lại được dịp vang
động như tiếng hải triều. Khi hải
triều lên tất cả đều bị cuống
phăng theo ngọn sóng.
Pháp âm giác ngộ cũng hùng vĩ như tiếng hải
triều.
Đại chúng! Nhân gian thường bị vướng
mắc trong bốn cái cạm bẫy lớn. Cạm
bẫy thứ nhất là dục lạc. Cạm bẫy
thứ hai là kiến thức. Cạm bẫy thứ ba là
nghi lễ. Cạm bẫy thứ tư là ư niệm về
ngă. Vướng mắc vào các cạm bẫy ấy, con
người không c̣n vùng vẫy được. Pháp âm giác ngộ
đưa con người thoát ra bốn thứ cạm
bẫy lớn này.
Đại chúng! Đạo lư duyên khởi là con
đường đưa mọi người ra khỏi
mọi cố chấp và cạm bẫy. Các vị phải
thường xuyên quán sát tự tánh duyên khởi trong
đời sống hàng ngày của các vị, nơi thân
thể, nơi cảm thọ, nơi tâm ư và nơi vạn
pháp, đối tượng của tâm ư.
Buổi thuyết pháp của Bụt được
đại đức Ananda trùng tuyên ngày hôm sau tại
giảng đường Lộc Mẫu. Đại
đức đặt tên cho bài thuyết pháp này là Kinh
Tiếng Gầm Của Sư Tử.
Mùa an cư năm ấy, rất nhiều vị khất
sĩ trong tu viện mắc phải bệnh sốt rét. Có
nhiều thầy sốt cho đến ốm o và xanh xao.
Rất nhiều thầy không đủ sức để ôm
bát đi khất thực. Họ phải nằm tại nhà
chờ các vị khất sĩ đi khất thực
về chia xẻ thức ăn với họ. Nhưng
hầu hết thức ăn xin được là cơm có
chan nước cà ri. Thức ăn này quá cứng và quá khô
đối với người bệnh, thành ra những
vị khất sĩ bị sốt không thể nào muốt
được. Biết vậy, Bụt cho phép giới
cư sĩ cúng dường cho các vị khất sĩ
bệnh các thức ăn mềm và có nhiều chất
lượng bổ dưỡng như mật, sữa,
đường, đề hồ và dâu.
Nhờ những thức ăn ấy các vị khất
sĩ bị bệnh phục hồi được sức
khỏe một cách từ từ.
Một hôm sau giờ ngồi thiền. Bụt nghe tiếng
quạ kêu râm ran bốn phía. Người đi ra th́
thấy một số các vị khất sĩ đang cho
quạ ăn các thức ăn rất quư đă
được cúng dường đặc biệt cho
người bệnh. Các vị khất sĩ này là những
người được cử ra săn sóc cho bệnh
nhân. Họ tŕnh với Bụt rằng sở dĩ họ
phải cho quạ ăn các thức ăn quư giá này v́ có
một số các vị khất sĩ sốt vào buổi
sáng nên không thọ thực được. Quá giờ
ngọ th́ không được ăn nữa, cho nên thức
ăn phải đem cho quạ ăn. Bụt hỏi
tại sao không giữ các thức ăn này lại cho ngày mai.
Các vị trả lời là họ không được phép
giữ thức ăn qua đêm. Bụt dạy trong khi
bệnh, các vị khất sĩ có quyền thọ thực
sau giờ ngọ, và cũng có quyền giữ các thức
ăn đến ngày hôm sau.
Một vị y sĩ tại thủ đô gặp
đại đức Sariputta và đề nghị với
đại đức một thứ thức ăn
được chế biến bằng năm yếu
tố có nhiều chất đạm để bồi
bổ cho các vị khất sĩ đă v́ sốt và rét mà trở
nên ốm yếu xanh xao.
hết
phần 17 , xem tiếp phần 18