Thích
Nhất Hạnh
Đường
Xưa Mây Trắng
chương mười chín
Trái Quít Của
Chánh Niệm
Trưa
hôm ấy khi mang cơm vào rừng cho sa-môn Siddhatta, Sujata
thấy ông đang ngồi dưới gốc cây Pippala,
đẹp như một buổi sáng mai. Nét mặt ông
rạng rỡ, toàn thân ông tỏa chiếu sự an lạc
và thanh tịnh. Đã hàng trăm lần Sujata trông thấy
cảnh tượng vị sa-môn ngồi tĩnh tọa
trang nghiêm hùng tráng và đẹp đẽ dưới gốc
cây Pippala, nhưng hôm nay có bé cảm thấy một
điều gì rất khác lạ.
Nhìn Siddhatta, Sujata tự nhiên cảm thấy tất cả những
buồn lo của mình tan biến và niềm vui phát hiện
trong lòng cô như một ngọn gió mùa Xuân. Cô có cảm
tưởng rằng cô không còn ham muốn hay mơ
ước một cái gì trên cuộc đời này nữa
cả. Tất cả vũ trụ như đã trở nên
hoàn toàn tốt lành, hoàn toàn đẹp đẽ và trong nhân
gian không cần phải nhọc nhằn lo lắng nữa.
Sujata tiến tới mấy bước, Cô bé cảm
thấy rất an ổn và nhận ra rằng niềm an
lạc, và thanh tịnh của thầy đã tỏa
chiếu và đi vào trong con người của cô. Siddhatta
mỉm cười nhìn Sujata. Ông nói:
- Con ngồi xuống đây. Thầy cám ơn con đã cúng
dường cơm nước cho thầy trong suốt
thời gian sáu tháng. Hôm nay là ngày vui nhất của thầy,
bởi vì đêm qua thầy vừa tìm ra đạo lớn.
Con hãy vui mừng đi. Mai mốt thầy sẽ ra đi
để chỉ bày cho mọi người con
đường thầy mới tìm ra được.
Sujata nhìn lên, ngạc nhiên:
- Mai mốt thầy sẽ ra đi? Thầy bỏ chúng con
sao?
- Mai mốt thầy sẽ ra đi, nhưng thầy sẽ
không bỏ các con. Trước khi từ giã các con, thầy
cũng sẽ dạy cho các con con đường thầy
mới khám phá.
Sujata chưa được yên tâm. Cô bé định hỏi
thêm, thì Siddhatta đã nói tiếp:
- Thầy sẽ ở lại đây với các con ít ra
cũng là một tuần trăng nữa. Thầy sẽ
dạy đạo cho các con. Sau đó thầy mới lên
đường, nhưng như vậy không có nghĩa là
thầy sẽ xa các con mãi mãi. Thỉnh thoảng trên
đường hành đạo, thầy sẽ ghé thăm và
chơi với các con.
Nghe nói sa môn sẽ ở lại một tuần trăng
trước khi đường, Sujata mới tạm yên
dạ. Cô bé quỳ xuống, mở gói lá chuối và dâng
cơm lên.
Siddhatta thọ trai, trong khi Sujata ngồi một bên, nhìn
vị sa môn đang thong thả bẻ từng miếng
cơm nhỏ chấm vào muối mè để ăn. Cô
thấy lòng hân hoan không biết chừng nào mà kể.
Thọ trai xong, Siddhatta bảo Sujata đi về, và hẹn
xế chiều sẽ gặp lại cùng với bọn
trẻ trong xóm.
Chiều hôm ấy, bọn trẻ đến rất
đông. Ba đứa em của Svastika cũng đều có
mặt. Các cậu con trai đều đã tắm rửa
sạch sẽ và ăn mặc tươm tất. Các cô bé
đều choàng sari màu, Sujata mặc sari lụa màu ngà.
Nandabala màu đọt chuối. Bhima màu hồng. Bọn
trẻ ngồi quanh Siddhatta dưới gốc cây Pippala,
rực rỡ như những bông hoa.
Sujata đã đem đến rất nhiều trái dừa và
những thẻ đường thốt nốt để
thết đãi thầy Siddhatta và cả bọn. Chúng cạy
dừa và bẻ ra từng miếng để ăn với
nhau rất là vui vẻ. Đường thốt nốt càng
làm cho dừa ngon thêm. Nandabala và Subas cũng đem theo
mấy mươi trái quít. Chúng chia nhau bóc quít ăn. Sa-môn
Siddhatta ngồi giữa bọn trẻ, rất vui. Bé Rupak
mời ông một miếng dừa và một miếng
đường thốt nốt, đặt trên một cái
lá Pippala . Nandabala dâng ông một trái quít.
Ông tiếp nhận mọi thứ và cùng ăn chung với
bọn trẻ.
Bữa tiệc ngắn chưa chấm dứt, Sujata đã
lên tiếng:
- Thưa các anh chị, các bạn và các em. Thầy nói hôm nay
là ngày vui của thầy vì Đạo Lớn đã
được tìm ra. Sujata cũng cảm thấy hôm nay là
một ngày rất lớn của Sujata. Vậy thưa các
anh chị các bạn và các em; tất cả chúng ta hãy xem này
hôm nay là một ngày vui lớn. Chúng ta họp lại hôm nay
để mừng ngày thành đạo của thầy.
Bạch thầy, Đạo Lớn đã thành, chắc
thầy không ở lại với chúng con được
lâu. Chúng con xin thầy dạy cho chúng con những
điều mà chúng con có thể hiểu được,
để chúng con được thấm nhuần ơn
đức của thầy.
Nói xong, Sujata chắp hai tay lại hướng về sa-môn
Gotama, dáng điệu kính cẩn và tha thiết. Nandabala và
bọn trẻ cũng đều chắp tay hướng
về Siddhatta với vẻ chí thành.
Siddhatta im lặng. Một lát sau ông ra hiệu cho bọn
trẻ bỏ tay xuống, và nói:
- Các con là những đứa trẻ thông minh, thế nào các
con cũng hiểu và làm theo được những lời
ta dạy. Đạo Lớn mà ta tìm ra rất sâu kín và
nhiệm mầu, nhưng nếu người nào chịu
học hỏi hết lòng cũng có thể thấy và hành
theo được. Con đường ta tìm ra
được gọi là con tỉnh thức. Khi các con bóc
một trái quít ra ăn, các con có thể ăn quít một
cách tỉnh thức hay không tỉnh thức. Thế nào
gọi là ăn quít một cách tỉnh thức. Đó là
trong khi ăn quít, mình biết là mình đang ăn quít, mình
cảm nhận được hương thơm và vị
ngọt của trái quít. Khi bóc quít mình biết là mình đang
bóc quít, khi gỡ một múi quít bỏ vào miệng, mình
biết là mình đang gỡ một múi quít bỏ vào
miệng, khi tiếp xúc với hương thơm và vị
ngọt của múi quít, mình biết là mình đang tiếp xúc
với hương thom và vị ngọt của múi quít. Trái
quít mà chị Nandabala vừa tặng thầy hồi nãy có
tất cả là chín múi. Thầy đã ăn từng múi trong
sự tỉnh thức như thế và thầy thấy
được rằng trái quít là rất quý giá, rất
mầu nhiệm. Trong suốt thời gian ăn trái quít
thầy không quên trái quít, vì vậy trái quít có thật
đối với thầy trong thời gian đó. Trái quít có
thật thì người ăn quít cũng có thật và
như vậy tức là ăn quít trong sự tỉnh
thức.
Nầy các con, còn thế nào gọi là ăn quít một cách
không tỉnh thức? Đó là trong khi ăn quít, mình không
biết là mình đang ăn quít, mình không cảm nhận
được hương thơm và vị ngọt của
trái quít. Khi bóc quít, mình không biết là mình đang bóc quít, khi
gỡ một múi quít bỏ vào miệng, mình không biết là
mình gỡ một múi quít bỏ vào miệng, khi tiếp xúc
với hương thơm và vị ngọt của múi quít,
mình không biết là mình đang tiếp xúc với
hương thơm và vị ngọt của múi quít. Ăn
quít như thế thì không thấy được sự quý
giá và mầu nhiệm của trái quít. Ăn quít mà không
biết là mình ăn quít, thì trái quít không thật sự có
mặt. Trái quít không thật sự có mặt thì
người ăn quít cũng không thật sự có mặt.
Các con, đó là ăn quít mà không có sự tỉnh thức.
Này các con, ăn quít trong tỉnh thức có nghĩa là trong
khi ăn quít ta xúc tiếp thật sự với trái quít, óc
ta không suy nghĩ vẫn vơ đến những
chuyện khác, chuyện của ngày hôm qua, chuyện của
ngày mai, vì tâm ta an trú trong giờ phút hiện tại cho nên
trái quít mới thật sự có mặt. Như vậy,
sống tỉnh thức là sống trong giây phút hiện
tại, thân và tâm an trú trong giây phút hiện tại.
Người tu tập phép tỉnh thức khi cầm trái
quít trong tay và nhìn vào trái quít có thể thấy
được những điều mà người khác không
thấy. Nhìn trái quít trong tỉnh thức, các con có thể
thấy được cây quít, các con có thể thấy
được cây quít nở hoa trong mùa Xuân, các con có thể
thấy được ánh nắng và giọt mưa đang
nuôi lớn trái quít. Nhìn sâu hơn nữa các con có thể
thấy được muôn vật trong vũ trụ
đang tiếp tay nhau để làm cho trái quít có mặt.
Nhìn một trái quít như thế người tu tập phép
tỉnh thức có thể thấy được những
sự mầu nhiệm của vũ trụ và đồng
thời cũng thấy được sự giao tiếp
trùng trùng của mọi vật trong vũ trụ
đối với nhau”.
Này các con, đời sống hàng ngày của chúng ta cũng
giống như một trái quít. Nếu trái quít có thể có
chín múi hoặc mười múi hay mười hai múi, thì
mỗi ngày cũng có hai mươi bốn giờ. Mỗi
giờ là một múi quít. Sống một ngày hai mươi
bốn giờ cũng như ăn cả một trái quít:
con đường mà ta tìm ra là con đường sống
tỉnh thức suốt hai mươi bốn giờ
một ngày, thân và tâm luôn luôn an trú trong hiện tại.
Ngược lại tức là sống trong quên lãng. Sống
trong quên lãng tức là sống mà không biết mình sống, sống
mà không thật sự tiếp xúc với sự sống,
bỏi vì thân tâm mình không an trú trong hiện tại.
Nói tới đây, sa môn Gotama gọi:
- Này Sujata.
- Dạ, Sujata chắp tay nhìn lên chờ đợi.
- Con nghĩ sao, khi một người biết sống
tỉnh thức, người ấy làm nhiều lầm
lỗi hay ít lầm lỗi?
- Bạch thầy, khi một người biết sống
tỉnh thức, người ấy ít phạm vào lầm lỗi.
Mẹ con thường dạy: làm con gái con phải có ý
tứ khi đi, khi đứng, khi nói, khi cười và khi
làm việc. Con thấy rằng sống có ý tứ cũng
như sống tỉnh thức. Nếu con để tâm vào
công việc, nếu con có ý tứ trong khi đi,
đứng, nói, cười thì trong đời sống hàng
ngày con tránh được những ý nghĩ, những
lời nói và những động tác có thể gây nên sự
đổ vỡ và làm kẻ khác phiền lòng.
- Đúng như vậy, Sujata. Khi một người
biết sống tỉnh thức, người ấy
biết mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì và vì vậy
người ấy có thể tránh được những ý
nghĩ, lời nói và động tác có thể gây nên khổ
đau cho mình và cho kẻ khác.
Này các con, sống tỉnh thức tức là sống trong
giờ phút hiện tại, và biết được
những gì đang xảy ra trong bản thân mình và hoàn
cảnh mình. Sống như thế ta tiếp xúc được
với sự sống, và nếu tiếp tục sống
tinh cần như thế ta có thể hiểu biết
được bản thân ta và hoàn cảnh ta một cách sâu
sắc, và sự hiểu biết đưa tới sự
chấp nhận và sự thương yêu. Khi mọi loài
hiểu biết nhau, không còn nhiều khổ đau. Này
Svastika, con nghĩ sao? Người ta có thể thương
được không, nếu người ta không hiểu?
- Bạch thầy, không hiểu thì khó có thể
thương. Xin thầy nhìn em Bhima của con. Có một hôm
bé Bhima khóc hoài, khóc cả đêm, làm cho chị nó là bé Bala
nổi cáu lên, phát cho nó một cái thật mạnh vào mông.
Bhima bị chị đánh lại khóc to hơn. Con
đến ẳm Bhima và con biết rằng Bhima đang
sốt. Có thể nó khóc vì đang bị nhức
đầu. Con gọi Bala mà nói:
"Này Bala, hãy tới sờ đầu em mà xem”. Bala
tới sờ đầu em, hiểu ngay. Mặt nó dịu
lại. Nó ôm em vào lòng, rồi ru em với tất cả
sự thương yêu. Em Bhima nín khóc, dù nó vẫn còn
sốt. Bạch thầy, đó là nhờ Bala đã hiểu,
cho nên con nghĩ rằng nếu không hiểu thì không thể
thương.
- Con nói đúng lắm, Svastika? Có hiểu mới
thương, và có thương mới biết chấp
nhận. "Nầy các con, tập sống cho tỉnh
thức các con sẽ từ từ hiểu: hiểu mình,
hiểu người, hiểu vạn vật và các con sẽ
có lòng thương. Đó là những điều sơ
lược về con đường mầu nhiệm mà ta
đã tìm ra”.
Svastika chắp tay:
- Bạch thầy, chúng con có thể gọi con
đường ấy là con đường tỉnh
thức được không?
Siddhatta cười:
- Được chứ, các con có thể gọi đạo
của ta là đạo tỉnh thức. Ta cũng ưa cách
gọi ấy của các con lắm.
Sujata chắp tay xin phép nói:
- Còn thầy là người đã tỉnh thức, đã
biết sống tỉnh thức và sẽ đi dạy
đạo tỉnh thức cho mọi người. Vậy
chúng con có thể gọi thầy là người tỉnh
thức được không?
Siddhatta gật đầu:
- Các con đặt tên cho ta như vậy, ta bằng lòng
lắm. Cứ gọi ta là người tỉnh thức.
Cách gọi ấy ta thấy đơn sơ mà thân mật.
Mắt của Sujata sáng lên. Cô bé nói:
- Tỉnh thức nói theo tiếng Magadhi là budh. Người
tỉnh thức nói theo tiếng Magadhi là Buddha. Vậy
từ nay chúng con gọi thầy là Bụt.
Siddhatta gật đầu. Tất cả bọn trẻ
đều hoan hỷ.
Nalaka, mười bốn tuổi, là người con trai
lớn tuổi nhất trong bọn. Cậu lên tiếng:
- Lạy Bụt, chúng con rất sung sướng
được Bụt dạy cho chúng con về con
đường tỉnh thức. Con nghe em Sujata nói gần
sáu tháng nay Bụt ngồi tu dưới gốc của cây
Pippala này, và chính đêm qua Bụt đã thành đạo
dưới gốc cây Pippala này. Thưa Bụt, cây Pippala này
đẹp nhất trong rừng. Chúng con muốn đặt
tên cây này là cây tỉnh thức, có được hay không?
Cây tỉnh thức tức là cây Bồ Đề, bởi vì
chữ bồ đề (bodhi) cũng cùng một họ
với chữ bụt, cũng có nghĩa là sự tỉnh
thức.
Sa-môn Siddhatta Gotama gật đầu. Ông rất hoan hỷ.
Ông không ngờ trong một buổi nói chuyện ngắn
ngủi với bọn trẻ nhỏ trong rừng mà ông
đã có tên, đạo của ông mới tìm được
đã có tên, và cây đại thọ nơi ông tìm ra
đạo lớn cũng đã có tên.
Nandabal chắp tay:
- Chúng con xin bái biệt Bụt hôm nay. Trời đã gần
tối, ít hôm nữa chúng con sẽ xin trở lại
để được Bụt dạy dỗ.
Bọn trẻ nhất loạt đứng dậy chắp
tay búp sen để cám ơn và từ giã Bụt.
Chúng ríu rít vui mừng như một đàn chim.
Bụt cũng vui, Bụt đã quyết định ở
lại rừng này trong một thời gian để chiêm
nghiệm về cách đem gieo rắc những hạt
giống của đạo tỉnh thức trong cuộc
đời, đồng thời cũng để có
thời gian thể nghiệm đầy đủ niềm
an lạc lớn lao do sự chứng đạo đem
tới.
chương hai mươi
Nai Ngọc
Mỗi
ngày, Bụt đều có xuống tắm dưới dòng
Neranjara. Người thường đi bách bộ
để thiền hành trên bờ sông hoặc ở
những con đường mòn trong rừng do chính dấu
chân của ngài tạo ra. Có khi Bụt ngồi tĩnh
tọa trên bờ sông bên dòng nước chảy. Có khi
Bụt ngồi tĩnh tọa dưới cây bồ
đề trong lúc hàng ngàn chim chóc ca hát líu lo trên cành lá.
Lời nguyện xưa bây giờ đã được
thực hiện. Bụt biết là người sẽ
trở về Kapilavatthu. Ở đó có nhiều
người đang chờ đợi Bụt. nhưng
Bụt cũng nhớ rằng ở thành Rajagaha, vua Bimbisara
cũng đang đợi chờ người. Vua Bimbisara
quả là một người bạn tri kỷ của
Bụt. Bụt phải đáp lại tấm thịnh tình
đó trước, và còn năm người bạn
đồng tu nữa. Bụt phải giúp đỡ họ.
Họ là những người có khả năng tiếp
nhận đạo giải thoát. Có lẽ năm
người ấy cũng chỉ đang quanh quẩn trong
vùng nầy mà thôi.
Dòng sông, bầu trời, trăng sao, núi rừng cũng
như từng ngọn cỏ và từng hạt bụi
đều trở nên mầu nhiệm đối với
Bụt. Người thấy những năm lang thang tìm
Đạo của mình trước kia không phải là vô ích.
Chính nhờ những năm phong trần ấy mà
người thấy được rằng đạo sáng
nằm ngay trong tự tâm mình. Tâm của chúng sinh chính là tâm
của giác ngộ. Hạt giống tỉnh thức nằm
ngay trong tâm của mỗi người. Chúng sanh không cần
đi tìm sự giác ngộ ở bên ngoài, bởi vì mỗi
sinh vật chứa đủ trong tự thân tất cả
trí tuệ và hùng lực của toàn vũ trụ. Đây là
một phát kiên vĩ đại của Bụt, và là một
tin mừng lớn cho tất cả.
Bọn trẻ đã rủ nhau trở lại nhiều
lần để được Bụt dạy dỗ.
Trong khi tiếp xúc với chúng, Bụt vui mừng nhận
ra rằng đạo lý giải thoát có thể diễn bày
bằng một ngôn ngữ đơn giản và mộc
mạc. Bọn trẻ, dù là những em bé chưa bao giờ
đi học cũng có thể hiểu được giáo
pháp của Bụt. Điều này làm cho Bụt phấn
khởi.
Có một bữa nọ, bọn trẻ đã tới
Bụt với một rỗ quít. Rỗ quít này do Sujata
đem đến. Chúng muốn được cùng ăn
quít với Bụt trong sự tỉnh thức để
thực tập lại bài học đầu tiên mà chúng
đã được học về đạo Bụt.
Sujata nâng rỗ quít đi mời từng người.
Trước hết cô bé quỳ trước Bụt và nâng
rỗ quít lên trên hai tay, đầu cô bé hơi cúi xuống
trong dáng diệu thành kính. Bụt chắp tay búp sen và
tiếp nhận một trái quít từ trong rỗ. Sujata
hướng sang mời Svastika hiện đang ngồi phía
bên trái của Bụt, Svastika cũng chắp tay búp sen như
Bụt để tiếp nhận một trái quít. Sujata làm
như thế cho đến khi mọi người
đều đã có trong tay một trái quít mới trở
về chỗ ngồi. Đặt rỗ quít trước
mặt, cô bé cũng chắp tay trước khi lấy lên
một trái quít. Bọn trẻ im lặng, Bụt bảo
chúng theo dõi hơi thở và mỉm cười. Rồi
Bụt để trái quít lên trên lòng bàn tay trái, đưa
lên, nhìn vào trái quít để quán tưởng chiêm nghiệm.
Bọn trẻ đồng loạt làm như Bụt.
Một lát sau, Bụt từ từ bóc quít, bọn trẻ
cũng làm như người. Thầy trò thong thả ăn
quít trong im lặng, trong tỉnh thức. Khi mọi
người đã ăn xong quít, Bala đi thu hồi
tất cả những cái vỏ quít. Bọn trẻ rất
sung sướng được ăn quít với Bụt
trong chánh niệm và Bụt cũng cảm thấy một
niềm vui lớn khi được ngồi thực
tập với bọn trẻ quê mùa nhưng rất dễ
thương này.
Bọn trẻ thường trở lại với Bụt
vào những buổi chiều. Có khi Bụt dạy chúng cách
theo dõi hơi thở để điều phục tâm ý
trong những khi buồn bực hoặc nóng giận. Có khi
Bụt dạy chúng cách ngồi yên để làm cho tâm trí
tĩnh lặng. Có khi Bụt dạy chúng cách đi thiền
hành để học nếm sự thảnh thơi.
Bụt dạy chúng thật kỹ về cách nhìn
người và sự việc: nhìn như thế nào
để có thể thấy, có thể hiểu và có thể
thương. Bài dạy nào bọn chúng cũng hiểu
được.
Một hôm nọ, Nanbadaal và Sujata quyết định cùng
nhau may một chiếc áo ca sa mới để dâng Bụt.
Hai chị em đã để ra một ngày để làm
chuyện này. Chiếc áo ca sa mới này màu gạch, hơi
giống với tấm vải mà Bụt đang choàng. Sujata
đã khám phá được nguồn gốc của tấm
vải đó. Đó là tấm vải đã được
phủ lên thi hài của Radha, người ở của nhà
cô, khi còn quàng ngoài nghĩa địa. Radha đã chết vì
bệnh thương hàn. Ba mẹ của Sujata đã nuôi
một người ở khác tên là Purna. Khi biết rằng
thầy mình đã phải lấy một tấm vải
ngoài nghĩa địa để giặt đi mà làm áo
ca-sa. Sujata như muốn khóc, và đó là lý do khiến cô bé
đi tìm người chị họ.
Ngày hai chị em đem áo vào dâng, Bụt đang ngồi
thiền dưới gốc Bồ Đề. Hai chị em
ngồi im lặng đợi cho đến khi người
xuất thiền mới dâng áo ca-sa lên. Bụt rất vui
lòng khi có áo mới. Người nói người sẽ
cần đến áo này. Và người nói người
muốn giữ lại tấm vải, để mỗi khi
giặt áo thì có vật khoác lên trên người. Nghe nói
thế, Nanbadala và Sujata quyết định may thêm cho
Bụt một chiếc nữa để người có
thể thay được áo ngoài mà đem đi giặt.
Một hôm nọ, bọn trẻ được nghe Bụt
kể một chuyện tiền thân. Hôm ấy chúng
đến khá đông, bé Balagupta hỏi Bụt về tình
bạn. Balagupta là một cô bạn gái của Sujata, mới
lên mười hai tuổi. Sở dĩ Balagupta hỏi
Bụt về tình bạn vì ngày hôm trước cô đã cùng
với cô bạn gái là Jatilika có chuyện xích mích cùng nhau, và
hôm nay trước khi đi vào thăm Bụt cô bé đã
định không ghé vào rủ Jatilika cùng đi, nhưng
cuối cùng, Sujata đã ép cô vào rủ Jatilika, Jatilika đã
chìu Sujata mà đi, nhưng khi tới cội bồ
đề, đôi bạn ngồi ra hai góc chứ không
ngồi gần sát bên nhau như trong những lần khác.
Bụt kể cho bọn trẻ nghe về tình bạn
giữa một con nai, một con chim và một con rùa. Theo
Bụt thì chuyện này đã xảy ra từ thời xa
xưa, cách đây hàng ngàn năm, lúc Bụt còn là một con
nai. Bọn trẻ ngạc nhiên, nhưng Bụt bảo:
- Trong những kiếp trước, chúng ta ai cũng
đều đã từng làm đất, làm đá, làm
sương, làm gió, làm nước, làm lửa. Chúng ta ai
cũng đã từng làm làm rêu, làm cỏ, làm cây cối, làm
côn trùng, làm cá, làm rùa, làm chim muông, làm thú vật. Điều
này ta tấy rất rõ trong thiền quán của ta. Vậy
thì trong một kiếp trước, ta đã làm một con
nai, đó là chuyện rất thường. Ta còn nhớ, có
một kiếp nọ, ta làm một mỏm đá trên
đỉnh núi. Có một kiếp khác nữa, ta đã làm
một cây bông sứ. Các con cũng vậy, chuyện ta
sắp kể là chuyện một con nai, một con chim,
một con rùa và một bác thợ săn. Có thể là
một đứa trong các con ngày xưa ấy đã làm con
chim, và một đứa khác làm con rùa.
Các con nên biết, có một thời nọ, trên cõi
đất của chúng ta, chưa có mặt của loài
người, và cũng chưa có mặt chim chóc và muông thú.
Lúc ấy chỉ có rong rêu dưới nước và cây
cối trên cạn mà thôi. Hồi đó, chúng ta chỉ có
thể là đất đá, sương khói hoặc cây
cối. Rồi từ đó mà chúng ta luân chuyển thành chim
chóc, thành các loài cầm thú và thành con người. Ngay trong
kiếp này, chúng ta cũng không phải chỉ là
người. Ta là người nhưng ta cũng
đồng thời là cây lúa, là cây dừa, là trái quít, là dòng
sông, là không khí ... bởi vì không có mặt những thứ
đó thì con người cũng không thể nào có mặt.
Cho nên khi các con nhìn cây lúa, trái dừa, trái quít, dòng sông, các con
nên nhớ trong kiếp này tuy mình là người mình cũng
phải nương tựa vào các loài ấy và mình cũng có
thể nói rằng mình là những loài ấy. Thấy
được như vậy mới thật là có hiểu
biết và có tình thương. Chuyện ta sắp kể cho
các con nghe tuy đã xảy ra cách đây hàng ngàn năm
nhưng có thể là đang xảy ta ngay trong giờ phút
này. Các con hãy lắng nghe cho kỹ mà suy nghĩ, để
xem mình có dính líu gì tới những con vật ở trong
truyện hay không!
Rồi Bụt bắt đầu kể. Thuở ấy
Bụt là một con Nai ở trong rừng. Trong rừng có
một hồ nước. Dưới hồ nước có
một con Rùa. Bên hồ nước có một cây
dương, và trên cây dương có một con chim Sáo. Nai,
Rùa, và Sáo chơi nhau rất thân. Một hôm có một
người thợ săn đi theo hai dấu chân Nai
tới bên hồ, nơi Nai thường xuống uống
nước. Ông ta đặt một cái bẫy bằng những
sợi dây da rất chắc ở đó, rồi đi
về nhà. Nhà ông ta không xa bìa rừng là mấy.
Chiều hôm ấy, tới bờ hồ dể uống
nước. Nai bị mắc bẫy, Nai kêu lên, Rùa và Sáo nghe
tiếng Nai. Rùa bò đến, Sáo bay tới. Thấy Nai
bị nạn, Rùa và Sáo bàn nhau phương thức giải
cứu cho bạn. Sáo nói với Rùa: “Chị Rùa ơi,
chị có răng khỏe thì chị hãy gắng gặm cho
đứt những chiếc dây da của cái bẫy này, còn
em, em sẽ tìm cách ngăn ông thợ săn lại,
đừng cho ông tới”. Nói xong, Sáo vội vã bay đi.
Rùa khởi sự gặm các sợi dây da. Sáo bay ra khỏi
rừng, tới nhà người thợ săn và đậu
sẵn trên một cành cây xoan trước cửa nhà,
chờ đợi. Trời sáng, người thợ săn
cầm lấy con dao nhọn và mở cửa đi ra.
Thấy người thợ săn bước ra, Sáo vỗ
cánh bay tới và lao mình vào mặt ông ta bằng hết
cả sức mạnh. Bị Sáo đạp vào mặt, bác
thọ săn choáng váng. Bác trở lui vào nhà. Bác nằm
xuống giường để nghỉ ngơi chốc
lát. Hồi lâu sau bác lại chồm dậy, cầm lấy
con dao nhọn. Lần này, bác đi ra bằng cửa sau,
nhưng Sáo đã biết trước. Sáo đã chực
sẵn trên một cành mít ở sân sau. Khi bác thợ săn
mở cửa đi ra. Sáo lại vỗ cách và lao mình vào
mặt bác một lần nữa.
Bị chim tấn công hai lần liên tiếp, bác thợ
săn quay vào nhà. Bác suy nghĩ: Ngày hôm nay xấu quá, dù ta
đi bằng ngõ trước hay bằng ngõ sau thì cũng
bị con chim quái gỡ này ngăn cản. Thôi ta hãy nghĩ
ngơi, để ngày mai sẽ vào rừng.
Sáng hôm sau, người thợ săn thức dậy
sớm. Cầm lấy chiếc dao nhọn, ông lấy nón
đội lên che kín mặt rồi mở cửa đi ra.
Không tấn công ông ta vào mặt được nữa. Sáo
lập tức bay về rừng báo cho hai bạn:
- Bác thợ săn sắp tới.
Lúc ấy Rùa đã gặm đứt gần hết các
sợi dây da. Chỉ còn có một sợi nữa thôi là Nai có
thể thoát được. Rùa dùng hét sức bình sinh
để gặm, nhưng sợi dây này cứng quá,
cứng như thép. Răng của Rùa gần như là
sắp rụng hết và miệng Rùa chảy máu rất là
tội nghiệp. Rùa đã ra sức gặm trong hai đêm
và một ngày, miệng Rùa không chảy máu sao
được.
Trong lúc đó người thợ săn vừa tới.
Trông thấy ông ta, Nai hoảng kinh vùng mạnh một cái.
Nhờ vậy sợi dây mà Rùa gặm nửa chừng
bị đứt. Nai vội phóng vào rừng. Lúc đó Sáo
đã bay lên đậu trên cây dương, nhưng Rùa
kiệt sức quá, không bò đi đâu được.
Thấy mất Nai, bác thợ săn tức lắm. Bác
lượm lấy Rùa, bỏ vào trong một cái túi da và treo
túi trên một thân cây rồi đi tìm Nai.
Lúc đó, Nai đang đứng sau một bụi rậm
nhìn ra để thăm chừng các bạn. Nai nghĩ: “Các
bạn đã liều thân cứu ta, đến lượt
ta, ta cũng phải liều thân cứu bạn”. Nghĩ
như thế, Nai từ từ bước ra cho
người thợ săn trông thấy. Nai làm ra vẻ
kiệt sức và khuỵu hai chân trước xuống.
Người thợ săn nghĩ:
- Con Nai này kiệt sức rồi, Ta có thể đuổi
theo nó và đâm nó một nhát.
Ông ta liền cầm đao đuổi theo Nai. Nai
đứng dậy từ từ đi vào rừng, dụ
bác thợ săn đi theo. Sau khi đã dụ
được bác thợ săn đi vào khá sâu trong
rừng, Nai vụt chạy thật nhanh, làm mất dấu
chân mình, rồi phóng trở ra hồ nước. Tới bên
cây dương, Nai dùng gạc của mình đẩy cái túi
da của bác thợ săn úp ngược xuống. Nhờ
vậy Rùa rơi ra khỏi túi. Sáo cũng bay tới
gần. Nai nói với hai bạn:
- Nhờ hai bạn mà tôi đã thoát chết về tay
người thợ săn. Tôi cám ơn hai bạn.
Người thợ săn sẽ trở lại ngay bây
giờ. Anh Sáo, anh hãy dời tổ anh đi nơi khác, còn
chị Rùa, xin chị bò xuống nước đi thôi. Mau
lên, còn tôi, tôi sẽ đi ngay vào rừng.
Khi người thợ săn trở lại, ông ta thấy
Rùa đã thoát đi đâu mất. Nai và Sáo cũng bặt
tăm. Buồn bã, ông ta đeo túi và cầm dao đi về
nhà.
Bé Rupak và bé Subash nghe đến chỗ con Rùa gặm
những sợi dây da suốt hai đêm và một ngày
khiến cho miệng Rùa chảy máu thì lấy làm
thương lắm. Chúng nó gần khóc. Kể xong chuyện
tiền thân, Bụt hỏi:
- Các con nghĩ xem, thuở ấy ta là Nai, còn ai trong các con là
Rùa?
Bốn em bé đưa tay lên. Svastika nhận thấy trong
số những người đưa tay có cả Sujata.
Bụt lại hỏi:
- Vậy ai trong các con là Sáo?
Lần này Svastika đưa tay lên. Nó nhận thấy có hai
đứa nữa cũng đưa tay lên. Đó là Jatilika
và Balagupta.
Sujata nhìn Jatilika rồi nhìn Balagupta:
- Cả hai em đều là Sáo, như vậy hai
người chỉ là một người. Sáo mà giận Sáo
thì còn ra gì nữa. Tình bạn của chúng ta không bằng
tình bạn giữa Sáo, Rùa và Nai hay sao?
Nói xong Sujata lại nhìn Balagupta, Balgupta hiểu ý,
đứng dậy. Cô bé tiến tới chỗ Jatilika,
đưa hai tay nắm lấy tay bạn. Jatilika cũng
đưa hai tay ôm Balagupta vào lòng, rồi nó ngồi xịch
ra một bên cho Balagupta có chỗ ngồi sát bên nó.
Bụt mỉm cười:
- Các con đã hiểu được chuyện tiền thân.
Các con nên nhớ rằng chuyện tiền thân như
chuyện ta vừa kể đang xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày giữa chúng ta.
chương hai mươi mốt
Hồ Sen
Bọn trẻ đi rồi, Bụt
đứng dậy đi thiền hành. Người
đi ra phía bờ sông. Người vén cao chéo áo,
lội qua sông.
Qua sông, Bụt theo con đường
giữa hai ruộng lúa đi tới cái hồ sen quen
thuộc. Người dừng lại bên
hồ.
Ngắm những ngó sen, lá sen và hoa sen trong hồ. Bụt thấy vị trí và hình dáng khác nhau của
mỗi thứ.
Bụt biết những củ sen không bao giờ
vượt ra khỏi bùn, Bụt biết có những
cọng sen còn đang nằm dưới mặt
nước, có những lá sen còn cuốn lại, một
nửa ở dưới nước, một nửa ở
trên không. Có những bông sen đã trồi lên
khỏi mặt nước nhưng búp còn ngậm. Có những bông sen đang hé nở. Có những bông sen đã nở lớn.
Lại có những cái gương sen không còn mang theo cánh sen nào. Có những bông sen màu trắng,
có những bông sen màu xanh, có những bông sen màu hồng.
Quán sát hồ sen, Bụt thấy con người cũng
vậy. Mỗi người có một căn tính khác nhau.
Devadatta không giống Ananda, Yasodhara không giống phu nhân Pamita
mẹ nàng, Sujata không giống Bala. Tính tình, đức
độ, sự thông minh và tài trí mỗi người
một khác. Con đường giải thoát mà Bụt đã
tìm ra cần được diễn bày nhiều cách
để có thể thích ứng với mọi lớp
người. Khi Bụt dạy dỗ bọn
trẻ con trong xóm, người đã tự nhiên tìm
được những phương tiện để
diễn giải đạo lý cho chúng hiểu.
Những phương tiện này có thể được
gọi là những cánh cửa mở ra để con
người đi vào và hiểu được giáo pháp: có
thể gọi đó là những pháp môn. Vậy pháp môn là
kết quả tự nhiên giữa sự tiếp xúc
giữa Bụt và quần chúng, chứ không phải là do
sự sắp đặt đơn phương của
Bụt khi ngồi dưới cội bồ đề.
Nghĩ như vậy, Bụt thấy rằng đã
đến lúc người cần trở lại với xã
hội con người. Trở lại để cho vành xe chánh pháp bắt đầu chuyển
động trên con đường gieo rắc những
hạt giống của đạo giải thoát. Bốn mươi chín ngày đã đi qua từ khi
đạo tỉnh thức đã được chứng
đạt. Bụt quyết định trưa mai
sẽ rời tụ lạc Uruvela, tạm biệt khu
rừng êm mát bên sông Neranjara, tạm biệt cây bồ
đề và bọn trẻ. Bụt
định đi tìm hai vị đạo sư của mình
là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta. Bụt tin rằng hai
vị này nếu được Bụt chỉ bày sẽ có
thể đạt tới quả vị giác ngộ rất
mau chóng. Bụt dự tính sau khi giúp hai người này,
Bụt sẽ đi tìm năm người bạn
đồng tu khổ hạnh để giúp họ, và sau
đó người mới trở về
Sáng hôm sau, Bụt mặc áo ca-sa mới, ôm bát
và đi vào thôn Uruvela khi trời còn mờ sương.
Người tìm tới nhà Svastika. Bụt
báo tin cho chú bé biết là người sẽ rời khỏi
Uruvela sáng nay. Svastika thức các em dậy.
Tất cả đều buồn rầu khi
nghe tin Bụt sắp đi. Bụt xoa
đầu từng đứa để từ giã.
Svastika và mấy đứa em muốn đưa tiễn
Bụt ra khỏi làng, nhưng Bụt còn muốn từ giã
Sujata, cùng với bọn trẻ, người đi vào xóm.
Khi Bụt đến nhà Sujata thì cô bé đã dậy. Nghe tin
Bụt sắp đi, Sujata khóc. Bụt nói:
- Ta phải tạm xa các con để đi lo cho tròn trách
vụ, nhưng ta hứa là sẽ trở lại đây
thăm các con mỗi khi có dịp thuận lợi. Ta cám
ơn các con. Các con nhớ sống và làm theo
những lời ta dặn, như thế là các con sẽ
không bao giờ xa cách ta. Sujata, con hãy lau
nước mắt và cười lên đi.
Sujata lấy chéo áo sari lau nước mắt
và gượng cười để Bụt vui lòng. Bọn trẻ đưa Bụt ra cổng làng.
Tới bờ sông, vừa định chia tay
với bọn trẻ thì Bụt trông thấy một sa-môn
trẻ từ phía ruộng đi lên. Thấy Bụt, vị
sa-môn này chắp tay chào rồi nhìn sững Bụt
. Một lúc sau, ông ta mới nói:
- Sa môn, dáng điệu ngài trầm
tĩnh lắm. Thần sắc ngài rạng rỡ.
Ngài tên là gì, và ai là vị đạo sư của ngài?
Bụt trả lời:
- Tôi tên là Siddhatta Gotama. Tôi đã học với nhiều
thầy, nhưng hiện tại thì không ai làm thầy
của tôi cả, còn thầy, thầy tên gì và đang đi
đâu?
Vị sa-môn đáp:
- Tôi là sa-môn Upaka. Tôi mới từ đạo
tràng của đạo sư Uddaka Ramaputta tới.
- Đạo sư Uddaka có mạnh giỏi
không, thầy?
- Đạo sư Uddaka mới tịch cách
đây mấy hôm.
Nghe nói đạo sư Uddaka đã tịch, Bụt thở
dài. Như vậy là Bụt không có dịp
để giúp
- Vậy thì thầy đã có dịp thọ giáo với
đạo sư Alara Kalama chưa?
Sa-môn Upaka nói:
- Tôi cũng đã từng được học với
đạo sư Alara Kalama. Đạo sư
cũng đã tịch rồi.
Như vậy là hai vị thầy đầu mà Bụt
từng theo học đã theo nhau
tịch. Bụt hỏi thêm:
- Vậy thầy có biết sa-môn Kondanna
không?
Upaka đáp ngay:
- Có, tại đàng tràng cũ của đạo sư
Uddaka, tôi có nghe nói rằng sa môn Kondanna, cùng với bốn
vị sa-môn bạn hữu hiện đang tu ở Isipatana,
trong vườn Nai, gần thành Baranasi. Sa môn Gotama, xin ngài
cho phép tôi từ biệt. Tôi còn phải đi
trọn ngày hôm nay mới tới được nơi tôi
muốn tới.
Bụt chắp tay từ giã sa-môn Upaka,
rồi quay lại bọn trẻ. Người
nói:
- Các con, bây giờ ta sẽ lên đường đi
Baranasi. Ta sẽ đi tìm gặp năm người
bạn tu khổ hạnh của ta.Thôi nắng đã lên
rồi, các con về đi.
Nói xong, Bụt chắp tay từ giã.
Người đi dọc theo bờ sông
đi về hướng Bắc. Người biết
rằng con đường này tuy dài hơn, nhưng dễ
đi hơn. Sông Neranjara đi lên hướng Bắc và
sẽ đổ vào sông Hằng. Gặp sông Hằng,
người sẽ theo bờ sông đi
ngược về phương Tây. Chừng
sáu ngày đường Bụt sẽ tới làng Pataligrama.
Tại đây người sẽ vượt ngang sông
Hằng. Bên kia sông là kinh đô Baranasi
của vương quốc Kasi.
Bọn trẻ chắp tay đứng
nhìn Bụt cho đến khi người đi khuất. Đứa nào cũng buồn hiu. Sujata lại khóc. Svastika cũng muốn khóc,
nhưng cậu bé cầm lại được. Các em mình
còn đứng đó, khóc sao cho tiện. Cuối cùng Svastika
nói:
- Chị Sujata, em chào chị. Em phải về
đưa trâu đi ăn. Các em, ta
về nhà đi thôi. Bala, hôm nay em phải
tắm cho thằng Rupak. Đưa Bhima
đây anh ẳm cho.
Trên con đường bờ sông, bọn trẻ âm thầm
đi về xóm cũ.
***
Thầy Ananda là một vị sa-môn tính tình nhu hòa rất
dễ mến. Người thầy
rất đẹp. Thầy có trí nhớ thật
diệu kỳ, bất cứ Bụt dạy điều gì,
thầy đều ghi nhớ không sót một mảy may.
Thầy đã nhắc lại mười một
điều mà Bụt nói trong kinh chăn trâu, theo
thứ tự trước sau. Vị sa-môn
trẻ Svastika nghĩ rằng tất cả những gì mà
chú vừa thuật cho thầy nghe, thầy đều
đã ghi vào trong ký ức của thầy đầy
đủ.
Trong khi thuật lại giai đoạn Bụt còn ở
trong rừng với bọn trẻ, Svastika thường
thỉnh thoảng ngước mặt nhìn ni
sư Gotami. Chú thấy hai mắt bà lóng lánh.
Chú biết bà rất ưa được nghe
những chuyện này chú đã cố gắng thuật
lại với thật nhiều chi tiết. Bà rất
vui khi nghe chú kể tới những chuyện như
chuyện bọn trẻ cũng ngồi im lặng ăn quít với Bụt ở trong rừng.
Rahula nghe Svastika kể chuyện cũng rất lấy làm
thích thú, còn thầy Assaji nữa. Thầy là
người nghe im lặng nhất từ cả ngày hôm qua
cho đến ngày hôm nay. Chú biết thầy là một
trong năm vị sa-môn từng tu khổ
hạnh với Bụt tại Uruvela. Chú rất muốn
được thầy kể lại cuộc gặp
gỡ giữa Bụt và năm thầy sau sáu tháng xa cách,
nhưng chú chưa dám.
Vừa lúc ấy thì ni trưởng Gotami
lên tiếng:
- Chú có muốn đại đức Assaji kể cho chú nghe
về những gì đã xảy ra cho Bụt từ khi
Bụt rời khỏi Uruvela không? Đại
đức Assaji đã từng thân cận với Bụt
trong suốt mười năm nay, chính ta cũng chưa
được nghe ai kể hết về những gì đã
xảy ta trong mười năm hành đạo của
người. Thưa sa-môn Assaji, chúng tôi
có thể thỉnh cầu đại đức kể lại
cho chúng tôi nghe về quãng đời đó của Bụt
được không?
Thầy Assaji chắp tay đáp lễ:
- Xin ni sư cứ gọi tôi bằng thầy, vừa
đơn giản vừa thân mật. Vâng hôm nay chúng ta nghe
chú Svastika kể cũng đã nhiều rồi, và cũng
lại gần đến giờ thiền tọa buổi
tối. Vậy chiều mai xin mời ni
sư, đại đức Ananda và hai chú sang liêu xá tôi.
Nhớ gì, tôi sẽ xin tường thuật lại hết
cho quý vị nghe.