Thích
Nhất Hạnh
Đường
Xưa Mây Trắng
chương hai mươi hai
Chuyển Pháp
Luân Kinh
Hồi
đó sa môn Assaji vẫn c̣n tu theo lối khổ hạnh
tại vườn Nai ở Isipatana.
Một hôm, sau giờ thiền tọa, thầy Assaji trông
thấy thấp thoáng bóng một vị sa-môn đang từ
ngoài xa đi đến.
Nh́n kỹ, ông biết đó là Siddhatta. Ông vội báo cho các
bạn cùng biết. Thầy Bhaddiya nói:
- Siddhatta hồi đó đang tu khổ hạnh với chúng
ta th́ nửa chừng bỏ cuộc. Ông ta ăn cơm,
uống sữa, vào ra thôn lạc và làm quen với bọn
trẻ trong xóm. Sa-môn Siddhatta đă làm cho chúng ta thất
vọng. Vậy nếu ông ấy có tới thăm chúng ta
th́ chúng ta cũng không nên đón tiếp nồng hậu làm
ǵ.
Cả năm người đồng ư là sẽ không ra
tận ngơ để đón tiếp mà cũng không cần
đứng dậy khi Siddhatta bước vào.
Nhưng sự t́nh đă xảy ra khác hẳn. Thấy
Siddhatta bước vào tới cổng, không ai bảo ai,
cả năm người đều tức khắc
đứng dậy. Sa-môn Siddhatta có phong độ thật
uy nghi. Người ông như tỏa chiếu hào quang.
Mỗi bước chân của ông như nói lên
được sức mạnh của tâm linh ông và cái nh́n
của ông như lấy đi hết tất cả mọi
ư niệm kháng cự có thể có trong năm người
sa-môn đă cùng tu chung với ông thuở trước.
Sa-môn Kondanna chạy tới trước. Ông đỡ
lấy b́nh bát trên tay Siddhatta. Sa-môn Mahanama chạy đi múc
nước cho Siddhatta rửa tay và rửa chân. Sa-môn Bhaddiya
kê một chiếc ghế mời Siddhatta ngồi. Sa-môn Vappa
đi t́m một quạt bằng lá cây thốt nốt
để quạt cho Siddhatta. Assaji th́ đứng ngớ
ngẩn một bên, chẳng biết làm ǵ.
Sau khi Siddhatta đă rửa tay, rửa mặt, rửa chân và
ngồi xuống, Assaji mới biết đi t́m rót một
bát nước lạnh đem tới cho Siddhatta giải
khát. Rồi năm người bạn cũ cùng ngồi
quanh Siddhatta. Siddhatta đưa mắt nh́n các bạn,
rồi nói:
- Nầy quư vị, tôi đă t́m ra đạo giải thoát
rồi, và tôi sẽ chỉ dạy lại cho quư vị.
Nghe nói như thế, sa-môn Assaji nửa tin nửa ngờ.
Có lẽ bốn người kia cũng có cảm
tưởng như ông. Mọi người im lặng
hồi lâu. Bỗng Kondanna lên tiếng:
- Sa-môn Gotama! Hồi trước trong thời gian tu với
chúng tôi, bạn đă nửa chừng bỏ cuộc,
bạn đă ăn cơm, uống sữa và giao thiệp
với người lớn và trẻ con trong xóm. Làm sao
bạn có thể t́m được đạo giải
thoát. Làm sao bạn có thể chỉ dạy cho chúng tôi
về đạo giải thoát?
Siddhatta nh́n vào mắt sa môn Kondanna, ông hỏi:
- Sa-môn Kondanna, bạn đă quen biết tôi từ gần sáu
năm nay. Trong thời gian ấy tôi đă từng nói
dối bạn một lần nào chưa?
Kondanna giật ḿnh. Ông thẳng thắn nói:
- Sa môn Gotama nói đúng, Tôi chưa bao giờ từng nghe
sa-môn nói một điều không phù hợp với sự
thực.
- Vậy các bạn hăy nghe đây. Tôi đă t́m ra
được Đạo Lớn rồi và tôi sẽ
chỉ dạy cho các bạn. Các bạn là những vị sa
môn đầu tiên trên đời được nghe giáo pháp
mầu nhiệm mà tôi đă t́m ra. Giáo pháp này không phải là
kết quả của suy luận. Giáo pháp này là hoa trái
của thực chứng. Các vị hăy đem hết
nhận thức thanh tịnh mà nghiêm chỉnh lắng nghe.
Giọng nói của Bụt mang uy lực tâm linh rất
lớn khiến năm người đều tự
động đổi thế ngồi, nghiêm chỉnh
hướng về người. Họ chắp tay lại.
Kondanna thành kính nói:
- Xin sa-môn Gotama đem hết ḷng xót thương mà dạy
cho chúng tôi.
Bụt nghiêm trang mở lời:
- Nầy các vị sa môn, có hai thái cực mà người tu
đạo nên tránh: một là lao ḿnh vào khoái lạc nhục
thể, hai là hành hạ thân xác cho hao ṃn. Cà hai con
đường đều đưa tới sự phá
sản của thân tâm. Con đường mà tôi đă t́m ra
là con đường trung đạo tránh được
hai thái cực ấy và có thể đem đến trí
tuệ, giải thoát và an lạc. Con đường đó
là con đường Bát chánh: nhận thức chân chính,
tư duy chân chính, ngôn ngữ chân chính, hành động chân
chính, sinh kế chân chính, chuyên cần chân chính, niệm
lực chân chính và định lực chân chính. Tôi đă theo
con đường bát chánh đó và đă thực hiện
được trí tuệ, giải thoát và an lạc.
Nầy các vị, sao gọi là chánh đạo? Sở dĩ
gọi là chánh đạo v́ con đường này không
phải là con đường trốn tránh đau khổ mà
là con đường đối diện trực tiếp
khổ đau để diệt trừ khổ đau. Con
đường bát chánh này là con đường của
sự sống tỉnh thức, v́ vậy chánh niệm là
khởi điểm. Có chánh niệm th́ sẽ có chánh
định, nghĩa là định lực có tác dụng
đưa tới trí tuệ. Nhờ có niệm lực và
định lực chân chính th́ nhận thức, tư duy,
ngôn từ, hành động, sinh kế và sự chuyên cần
cũng sẽ đi vào chánh đạo. Trí tuệ được
phát sinh sẽ giải thoát được cho người
hành giả tất cả mọi ràng buộc khổ đau
và làm phát sinh nơi người hành gia nguồn an lạc
chân chính.
Nầy các vị, có bốn sự thật mà người tu
phải công nhận: sự có mặt của những nguyên
nhân của các khổ đau ấy, sự chấm dứt
khổ đau và con đường đi tới sự
chấm dứt khổ đau. Bốn sự thật ấy
là bốn sự thật mầu nhiệm, gọi là tứ
diệu đế. Này các vị sa-môn, đây là sự
thật thứ nhất: Khổ đau, sinh, già, bệnh và
chết là khổ; buồn, giận ghen, tức, lo lắng,
sợ hăi và thất vọng là khổ; chia cách người
thân yêu là khổ, chung đụng với người ghét
bỏ là khổ, tham đắm và kẹt vào năm uẩn
là khổ.
Nầy các vị sa-môn, đây là sự thật thứ hai:
nguyên nhân của khổ đau. V́ ngu muội, v́ không
thấy và không hiểu được sự thật
về bản thân và về cuộc đời cho nên con
người bị những ngọn lửa của tham
đắm, giận hờn, ghen tức, sầu năo, lo
lắng sợ hăi và thất vọng đêm ngày đốt
cháy và hành hạ.
Nầy các vị sa môn, đây là sự thật thứ ba:
sự chấm dứt khổ đau. Đó là trí tuệ, là
hiểu biết, là nhận thức được sự
thật về bản thân và về cuộc đời. Trí
tuệ này, cái thấy này đưa lại sự chấm
dứt của mọi sầu đau và làm phát sinh niềm an
lạc.
Nầy các vị sa môn, đây là sự thật thứ
tư: con đường diệt khổ. Đó là con
đường Bát chánh mà tôi đă tŕnh bày. Bản chất
của Bát chánh đạo được nuôi dưỡng
bằng nếp sống tỉnh thức hàng ngày, đó
tức là chánh niệm. Chánh niệm đưa tới
Định và Tuệ, có năng lực giải thoát con
người khỏi mọi niềm đau và đem lại
mọi an vui. Tôi sẽ hướng dẫn cho các vị
từng bước trên con đường thực hiện
này.
Trong khi Siddhatta giảng giải về bốn sự
thật mầu nhiệm, sa-môn Kondanna bỗng thấy tâm
ḿnh bừng sáng. Ông thấy được lập tức
con đường giải thoát thật sự mà lâu nay ông
t́m kiếm. Nét mặt ông rạng rỡ. Thấy thế,
Bụt chỉ vào ông và nói lớn:
- Sa-môn Kondanna! Bạn đă hiểu! Bạn đă hiểu!
Kondanna chắp tay quỳ xuống bên ghế ngồi
của Bụt. Ông thành kính nói:
- Sa-môn Gotama, xin thầy hăy nhận Kondanna này làm học tṛ
của thầy. Kondanna biết rằng dưới sự
chỉ dạy của thầy, Kondanna sẽ thành
đạt nguyện lớn.
Bốn vị sa-môn kia thấy vậy cũng quỳ
xuống cả dưới chân Bụt và chắp tay cầu
xin Bụt nhận họ làm đệ tử. Bụt
đỡ cả năm người dậy. Người bảo
họ ngồi lên ghế. Người cũng ngồi
xuống chỗ ngồi cũ của ḿnh. Bụt nói:
- Nầy quư vị! Bọn trẻ trong làng Uruvela đă
đặt tên cho tôi là Bụt. Có lẽ quư vị cũng có
thể dùng danh từ ấy để gọi tôi.
Kondanna hỏi lại:
- Bọn con nít gọi sa-môn Gotama là Bụt? Bụt có
nghĩa là “người tỉnh thức"?
- Đúng như vậy, và chúng gọi con đường mà
tôi t́m ra là “đạo tỉnh thức". Các thầy nghe
có được không?
- Người tỉnh thức! Đạo tỉnh thức!
Hay lắm! Hay lắm! Danh xưng vừa chính xác, vừa
đơn giản và thân mật. Chúng con xin từ nay
gọi thầy là Bụt và nền đạo lư mà thầy
t́m ra là đạo Bụt. Đạo tỉnh thức.
Đúng lắm, bởi v́ nếp sống tỉnh thức
hàng ngày, như thầy nói, là căn bản cho sự tu hành.
Năm người đă đồng ư tôn sa-môn Gotama làm
thầy, bây giờ đều đồng ư gọi sa-môn
Gotama là Bụt.
Bụt mỉm cười nh́n họ:
- Xin các vị tinh tiến tu hành. Con đường đă
t́m ra được. Nếu quư vị thực tập nghiêm
chỉnh th́ chỉ trong ṿng ba tháng quư vị sẽ
đạt tới quả vị giải thoát.
Bụt ở lại Isipatana một thời gian để
dạy dỗ cho năm vị sa-môn. Họ vâng lời
Bụt chấm dứt lối tu khổ hạnh. Mỗi
ngày ba vị luân phiên cầm bát đi khất thực trong
xóm. Trưa về, ba người san sẽ thức ăn
xin được cho ba người ở lại, trong
đó có Bụt. Bụt ở lại để
hướng dẫn sự tu học cho mọi
người. Năm vị tu học rất tinh tiến và
ngày nào cũng đạt được nhiều tiến
bộ.
Bụt dạy cho họ về tự tính vô thường và
vô ngă của vạn vật. Người phân tích cho họ
thấy năm uẩn đều như những ḍng sông
luôn luôn trôi chảy và biến đổi, trong đó không có
một cái ǵ có thể gọi là đồng nhất và
bất biến. Năm uẩn tức là thân thể
(sắc), cảm giác (thọ), tri giác (tưởng), tâm hành
(hành) và nhận thức (thức).
Bụt dạy họ quán sát sự trôi chảy của
năm ḍng sông ấy trong tự thân của mỗi
người để có thể thấy được
tính vô thường và vô ngă của chúng và của vạn
hữu, và cũng để thấy những liên hệ
mật thiết và mầu nhiệm giữa vũ trụ và
bản thân ḿnh.
Nhờ sự tu học tinh chuyên, năm vị dần
dần đạt được cái thấy mầu
nhiệm. Người đầu tiên chứng ngộ là
Kondanna. Rồi hai tháng sau là đến phiên Vappa và Bhaddhiya.
Cuối cùng Mahanam và Assaji cũng đạt tới quả
vị A-la-hán.
Bụt rất vui mừng. Người nói:
- Chúng ta đă có đoàn thể xứng đáng với tên
gọi sangha, đoàn thể của những người
biết sống cuộc đời tỉnh thức,
rồi đây quư vị sẽ phải cùng với tôi đem
những hạt giống của đạo tỉnh thức
gieo rắc khắp mọi nơi.
chương hai mươi ba
Những Giọt
Nước Cam Lồ
Bụt hay dậy sớm, và sau khi ngồi
thiền, người ưa đi thiền hành ngoài trời
giữa những hàng cây.
Một hôm đang đi thiền hành ngoài
trời, Bụt thấy một người đi tới.
Lúc ấy nắng chưa lên và trong sương mù h́nh dáng
của cây cối và của người khách lạ kia không
được tỏ rơ lắm. Bụt ngồi xuống
một tảng đá gần đó. Người khách lạ
đă đến gần. Người nầy chưa
thấy Bụt nhưng Bụt đă thấy
Bụt lên tiếng:
- Không có ǵ đáng sợ, không có ǵ ghê tởm.
Giọng Bụt vọng lên rành mạch và ôn
tồn trong không khí mát lạnh của buổi mai. Chàng thanh
niên giật ḿnh nh́n sang. Anh ta thấy Bụt ngồi
thảnh thơi trên một tảng đá, phong thái thật
ung dung và trầm tĩnh. Anh tuốt bỏ đôi dép,
tiến tới trước Bụt và lạy xuống,
rồi anh ngồi xuống trên một ḥn đá thấp bên
cạnh Bụt, Bụt hỏi:
- Cái ǵ mà đáng sợ? Cái ǵ mà ghê tởm?
Chàng thanh niên bắt đầu kể
chuyện ḿnh.
Anh ta tên là Yasa, con của một thương
gia giàu có vào bậc nhất nh́ ở thành phố Baranasi. Yasa
sống một cuốc sống giàu sang tột bực. Cha
mẹ anh cưng ch́u anh và cung cấp cho anh đủ
hết phương tiện để sống trong các thú
vui của người giàu có: nhà cao, cửa rộng, châu
báu, tiền bạc, rượu mạnh, kỹ nữ,
tiệc tùng, cuộc vui ... Yasa là một người con trai
biết suy nghĩ. Những năm gần đây, anh
bắt đầu thấy lợm v́ cái nếp sống trác
táng đó. Anh ta không c̣n cảm thấy lạc thú ǵ trong
cuộc sống ấy.
Anh ta khao khát một đời sống lành
mạnh, giống như một người bị nhốt
lâu trong một căn pḥng kín mít khao khát khí trời. Cả
đêm hôm qua, bạn bè anh ta quy tụ để ăn
uống, đàn địch và nô đùa với bọn vũ
nữ. Thức dậy lúc nửa đêm Yasa nh́n thấy
cảnh tượng cac vũ nữ nằm ngă nghiêng,
phơi bày những chân tướng không đẹp
đẽ ǵ của họ, chàng cảm thấy không thể
nào c̣n tiếp tục được cuộc sống trác táng
này. Chàng khoác lên người một cái áo, luồn chân vào
một đôi dép và mở cửa đi ra khỏi nhà. Chàng
đi ra cổng trước. Mở cửa cổng
trước, chàng đi mà không biết ḿnh đi đâu.
Chàng cứ thế mà đi trong đêm khuya, và t́nh cờ Yasa
đi về hướng vườn Lộc Uyển.
Tới đây th́ trời vừa sáng và Yasa gặp Bụt.
Bụt dạy:
- Yasa cuộc đời đầy dẫy
những khổ đau mà cũng đầy dẫy
những hiện tượng tượng mầu nhiệm.
Đắm ḿnh trong dục lạc, điều đó
chỉ có thể tàn phá sức khỏe của h́nh hài
cũng như của tâm hồn, và lại tạo thêm
khổ đau cho ta. Nếu biết sống một cuộc
đời lành mạnh, không bị vật dục lôi
cuốn, ta có thể tiếp xúc với biết bao cảnh
tượng mầu nhiệm trong cuộc đời. Yasa,
con hăy nh́n những thân cây đứng trong sương mù này.
Đó là những h́nh ảnh vừa đẹp đẽ
vừa mầu nhiệm. Trăng, sao, sông, núi, ánh sáng mặt
trời, tiếng chim hót, tiếng suối reo ... tất
cả những biểu hiện đó của vũ trụ
đều mầu nhiệm, đều đẹp
đẽ, đều có thể cho ta những nguồn vui
bất tận.
Những niềm vui này không phá hại sức
khỏe của thân thể và của tâm hồn, trái lại
c̣n nuôi dưỡng được cho thân thể và tâm
hồn. Chính thân thể và tâm hồn con cũng là những
hiện tượng mầu nhiệm, con thử nhắm
mắt lại, thở ra thở vào vài ba hơi, rồi
mở mắt ra xem. Con thấy không? Hai mắt của con có
thể nh́n thấy cây, thấy sương, thấy
trời, thấy tia nắng ấm; hai mắt của con
thật mầu nhiệm, v́ không tiếp xúc được
với hiện hữu mầu nhiệm nên đă có lúc con
chán ghét ngay cả thân thể con và tâm hồn con. Có
người chán ghét thân thể họ, tâm hồn họ và
chán ghét luôn cả cuộc đời cho nên đă đi
tự tử. Họ không biết rằng vạn hữu
cũng là mầu nhiệm. Họ chỉ thấy
được mặt khổ đau của vạn
hữu, nhưng khổ đau không phải là bản
chất của vạn hữu. Khổ đau là do thái
độ sống và do cách nh́n sai lạc của con
người mà có ...
Yasa là một chàng trai rất thông minh, những
lời của Bụt như những giọt nước
mát tưới vào tâm hồn khô cạn của chàng. Rất
sung sướng, chàng quỳ xuống dưới chân
Bụt và xin được làm học tṛ xuất gia
của Bụt.
Bụt đỡ Yasa lên. Người nói:
- Người xuất gia sống một
cuộc đời thanh bạch và khiêm cung, không nắm
giữ tiền bạc, ngủ trong am lá hoặc
dưới gốc cây, ăn bất cứ thức ăn
nào xin được và mỗi ngày chỉ ăn một
bữa. Con có thể sống như vậy được
không?
- Lạy thầy, con có thể sống như
vậy được.
Bụt nói:
- Người xuất gia tu học cần phai
đem hết tâm tư và nghị lực để hoàn thành
sự nghiệp giải thoát của ḿnh, để có
thể giúp đời và giúp người, làm vơi bớt
những khổ đau trong sự sống, con có phát
nguyện đi theo con đường ấy không?
- Lạy thầy, con xin phát nguyện đi theo
con đường mà thầy chỉ dạy.
- Vậy ta sẽ cho con xuất gia.
Người xuất gia tu học trong giáo đoàn ta sẽ
được gọi là bikkhu, nghĩa là người
khất sĩ. Mỗi ngày đi xin thực phẩm là
để tự nuôi sống ḿnh, để tập
đức khiêm cung, và cũng để có cơ hội
tiếp xúc với con người mà hướng dẫn
họ trên con đường đạo hạnh.
Vừa lúc ấy năm vị sa môn khất
sĩ học tṛ của Bụt cũng ra tới. Yasa
đứng dậy cung kính chào mọi người. Bụt
giới thiệu năm thầy với Yasa, rồi
hướng về thầy Kondanna, Bụt nói:
- Thầy Kondanna, đây là Yasa, một
người trẻ tuổi có chí nguyện xuất gia. Tôi
đă ưng thuận, vậy cúi xin thầy chỉ dạy
cho Yasa về cách mang y, ôm bát, đi khất thực,
điều phục hơi thở, ngồi thiền và
đi kinh hành. Yasa, con đi theo thầy Kondanna đi.
Yasa cúi chào Bụt. Thầy Kondanna đưa
chàng vào tịnh xá, xuống tóc cho chàng. Thầy trao cho Yasa
một cái y và một cái bát và dạy cho chàng cách mang y và
cầm bát. Y bát này đă được cúng dường cho
thầy từ lâu, nhưng v́ có sẵn y bát cũ, thầy
chưa bao giờ dùng tới.
Chiều hôm ấy, vị trưởng giả
thân sinh của Yasa t́m tới vườn Lộc Uyển. Cha
của chàng cho người đi lùng chàng khắp nơi. Có
một gia nhân theo vết dép của Yasa và t́m tới
được vườn Lộc Uyển. Anh ta thấy
được đôi dép bằng vàng của tiểu
chủ nằm bên một chiếc ghế đá. Vào hỏi
thăm, anh ta biết là tiểu chủ của ḿnh đang
có mặt tại đây. Anh vội vă về báo tin.
Ông thân sinh của Yasa t́m tới vườn
Lộc Uyển và được gặp Bụt đang
ngồi trên tảng đá. Ông ta đến làm lễ
người rồi chắp tay hỏi:
- Bạch sa môn, ngài có thấy Yasa con của con
không?
Bụt chỉ chiếc ghế đá bên
cạnh người:
- Mời ông ngồi xuống đây. Yasa
đang ở trong tịnh xá. Nó sẽ ra đây bây giờ.
Ông thân sinh của Yasa ngồi xuống, Bụt
kể cho ông ta nghe về những ǵ đă xảy ra sáng nay.
Bụt cũng nói cho ông ta nghe về tâm sự của Yasa và
những khao khát của chàng. Người kết luận:
- Yasa là một người con trai thông minh và có
chí khí. Nó đă t́m ra được nẻo thoát cho tâm
hồn nó, và hiện tại đă có niềm tin và sự an
lạc. Xin ông mừng cho nó.
Tiếp theo, Bụt dạy cho ông ta về cách
sống tỉnh thức để tránh bớt những
khổ đau và phiền muộn, và cũng là để
tạo sự an lạc cho ḿnh và cho những người
chung quanh. Nghe Bụt nói, tâm của ông càng lúc càng như sáng
ra. Ông đứng dậy chắp tay cầu Bụt cho ông ta
làm học tại gia của người. Bụt lặng
yên. Một lát sau, người nói:
- Học tṛ của tôi là những người
biết sống đơn giản, tỉnh thức,
biết tránh sự giết hại sinh vật, biết tôn
trọng tư hữu của kẻ khác, biết tránh
việc tà dâm, biết nói lời chân thật và tránh việc
rượu chè say sưa. Này trưởng giả, nếu
ông thấy ông có thể theo được con
đường đó th́ tôi chấp nhận ông là học
tṛ tại gia của tôi.
Ông thân sinh của Yasa quỳ xuống
trước mặt Bụt. Ông chắp tay thành kính nói:
- Con xin nương tựa nơi thầy, xin
thầy chỉ đường đưa lối cho con
trong cuộc đời này. Con xin nguyện làm đệ
tử tại gia của thầy cho đến này con
nhắm mắt ĺa bỏ cuộc đời.
Bụt đỡ vị trưởng dậy.
Khi đứng lên, vị trưởng giả trông thấy
Yasa đứng hầu sau lưng Bụt. Yasa trong y phục
của một người xuất gia, râu tóc cạo
sạch. Vị khất sĩ mới chắp tay lại
thành búp sen, cung kính chào cha, và miệng chàng mỉm
cười. Thần sắc Yasa tỉnh táo và sáng rỡ.
Vị trưởng giả chưa bao giờ thấy con
ḿnh tươi vui và hạnh phúc như thế. Ông chắp
tay lại đáp lễ, rồi ông nói:
- Mẹ của con đang sầu đau và lo
lắng ở nhà.
Yasa đáp:
- Con sẽ về thăm mẹ con, nhưng con
đă phát nguyện theo Bụt sống đời giải
thoát và phục vụ chúng sanh.
Vị trưởng giả hướng về
Bụt:
- Lạy Bụt, con xin thỉnh ngài và các
vị khất sĩ đệ tử xuất gia của
ngài trưa mai đến thọ trai tại nhà con. Xin
để cho người đệ tử mới của
ngài đi theo làm thị giả cho ngài. Chúng con sẽ
rất sung sướng được cúng dường
một bữa cơm cho các vị khất sĩ tại nhà
và cũng sẽ rất sung sướng được nghe
lời giáo huấn quư báu của ngài về đạo
giải thoát.
Bụt quay lại nh́n Yasa. Hai mắt của
người khất sĩ mới tu lấp lánh. Bụt
gật đầu chấp thuận lời thỉnh cầu
của trưởng giả.
Sáng hôm sau, Bụt cùng sáu vị khất sĩ
đến thọ trai tại nhà ông trưởng giả.
Mẹ của Yasa thấy con mừng rơi nước
mắt. Bụt và sáu vị đệ tử xuất gia
được mời ngồi trên những chiếc
ghế có trải tọa cụ. Mẹ của Yasa tự
tay dâng cúng thực phẩm vào bát của Bụt và vào bát
của sáu vị khất sĩ. Bữa cơm diễn ra
trong yên lặng. Cha mẹ của Yasa và các người
hầu cận kính cẩn đứng hầu, không ai dám nói
với ai một lời nào. Bữa cơm kết thúc. Sau
khi bát đă được rửa, nước uống
đă được dâng lên, vợ chồng ông
trưởng giả chắp tay làm lễ Bụt và ngồi
xuống trên những chiếc ghế thấp phía
trước mặt người. Bụt bắt đầu
giảng cho họ nghe về nội dung của năm
giới. căn bản tu học của
người đệ tử tại gia. Bụt nói:
- Người học theo con đường
tỉnh thức th́ phải biết vun bồi sự
hiểu biết (Trí) và t́nh thương yêu (Bi) của ḿnh.
Năm giới tức là cách thức sống để thực
hiện từ bi và trí tuệ.
Giới thứ nhất là tránh việc tàn
hại sinh mạng. Chúng sinh loài nào cũng tham sống
sợ chết, v́ vậy nếu ta thực sự học
theo đạo hiểu biết và thương yêu th́ ta
phải giữ giới không sát sanh. Không những ta không
được sát hại con người mà ta c̣n cố
gắng đến mức tối đa để tránh
sự sát hại các loài cầm thú. Giữ giới này là
một cách nuôi dưỡng từ bi và trí tuệ rất
hiệu quả.
Giới thứ hai là không gian lận trộm
cắp. Ta không có quyền xâm phạm vào tư hữu
của kẻ khác, và không làm giàu bằng cách lợi dụng
sự khờ dại và bóc lột sức lao động
của kẻ khác, trái lại ta phải biết t́m cách giúp
đỡ những kẻ khốn khổ những
phương tiện để họ có thể tự
lực mưu sinh.
Giới thứ ba là không tà dâm, nghĩa là không
xâm phạm đến tiết hạnh của những
người khác và hết ḷng trung thực với
người vợ hoặc người chồng của
ḿnh.
Giới thứ tư là không nói dối,
nghĩa là không nói những lời trái với sự
thật, không xuyên tạc, chửi rủa, không dùng lời
nói để gây thù hận và loan truyền những tin mà
ḿnh không chắc là có thực.
Giới thứ năm là không say sưa, không
dùng những chất ma túy và kích thích như thuốc
phiện và rượu.
Nếu ta sống theo được tinh
thần của năm giới này, ta sẽ tránh
được cho bản thân, gia đ́nh ta và bạn bè ta
mọi đau khổ và đổ vỡ. Ta sẽ thấy
đời ta tươi sáng và hữu ích lên gấp trăm
lần.
Trong khi Bụt nói, bà mẹ của vị
khất sĩ trẻ Yasa rất sung sướng. Bà
thấy được cánh cửa hạnh phúc mở
rộng trước mặt bà. Bà biết chồng ḿnh
đă được Bụt chấp nhận là đệ
tử tại gia của người, và điều đó làm
bà hân hoan vô hạn. Bà quỳ xuống chắp tay lại và
cầu xin Bụt cho bà làm đệ tử tại gia.
Sau đó, Bụt và sáu vị khất sĩ
trở về vườn Lộc Uyển.
chương hai mươi
bốn
Hăy Đi Như
Những Con Người Tự Do
Tin Yasa đi xuất gia bắt đầu
được loan truyền trong giới bạn hữu
của chàng. Bốn người bạn thân nhất của
Yasa là Vimala, Subahu, Punnaji và Gavampati, một hôm rủ nhau t́m
tới vườn Lộc Uyển. Trên đường
đi, Subahu nói:
- Nếu Yasa chịu đi tu, th́ ông thầy
của Yasa phải là một người rất giỏi và
giáo pháp của ông ta phải là một giáo pháp thâm diệu.
Tôi biết Yasa ít phục ai lắm.
Vimala trả lời:
- Không chắc như thế, có thể là Yasa
bốc đồng đi tu một thời gian mà thôi. Sáu
tháng hay một năm sau anh chàng hoàn tục cũng chưa
biết chừng.
Gavampati nói:
- Anh Vimala coi thường Yasa quá. Tôi thấy
tánh Yasa trầm lặng và anh ta thường suy nghĩ chín
chắn lắm.
Bốn người vào gặp Yasa. Yasa đem
các bạn ḿnh tới giới thiệu với Bụt. Yasa
bạch:
- Lạy Bụt, bốn người bạn
này của con đều là những người tốt. Xin
Bụt đem ḷng thương mở mắt cho họ
thấy được con đường giải thoát.
Bụt ngồi nói chuyện với bọn
trẻ. Vimala ban đầu c̣n có vẻ hồ nghi nhưng
càng nghe Bụt nói chàng càng thấy thấm. Cuối cùng
Vimala đề nghị với các bạn xin Bụt cho
cả bốn chàng xuất gia theo Yasa.
Bốn chàng trai trẻ quỳ xuống
chắp tay cầu Bụt để được
xuất gia. Thấy cả bốn người đều
nhiệt thành và thiết tha, Bụt ưng thuận.
Người giao cả bốn chàng cho khất sĩ Kondanna
dạy dỗ.
Bạn bè cũ của vị khất sĩ
Yasa đông có tới hàng trăm người. Tin Yasa và
bốn người bạn thân đi tu chẳng mấy
chốc mà đă được truyền ra khắp
chốn. Hơn một trăm hai chục người
đă tập họp về nhà của Yasa và cùng rủ nhau
đến vườn Lộc Uyển để thăm
hỏi. Họ đều là những người trai
trẻ, tuổi từ hai mươi tới ba mươi.
Đó là vào một buổi sáng đẹp trời. Nghe tin
họ đến thăm, khất sĩ Yasa ra đón họ
tận ngoài cổng. Thầy thuật cho họ
trường hợp đi xuất gia của ḿnh và nói
với họ về Bụt. Cuối cùng, thầy
đưa tất cả một trăm hai mươi
người bạn vào yết kiến người.
Một trăm hai mươi người
trẻ vây quanh, Bụt bắt đầu nói chuyện
về con đường thánh thiện, có khả năng
đưa tới sự diệt khổ và đem lại an
lạc. Người kể sơ lược về thân
thế và hành tŕnh t́m đạo của người, và nói
đến chí nguyện cứu người giúp đời
của tuổi trẻ. Một trăm hai mươi
người trai trẻ ngồi nghe Bụt một cách say
mê. Cuối cùng, năm mươi người trong đám
đông đó xin phép được ở lại xuất
gia tu đạo.
Trong số bảy mươi chàng thanh niên c̣n
lại, có nhiều người cũng muốn xuất gia,
nhưng họ c̣n kẹt bổn phận gia đ́nh;
người th́ có cha, người th́ có mẹ, người
th́ có vợ và con.
Yasa thỉnh Bụt chấp nhận lời
thỉnh cầu của năm mươi người
bạn. Bụt bằng ḷng. Rất sung sướng, Yasa
bạch với thầy:
- Ngày mai, con xin Bụt cho cho con được
về nhà con để khất thực. Con sẽ có dịp
nói chuyện với song thân con về việc cúng
dường y mới và bát mới cho những vị tân
khất sĩ.
Tại vườn Lộc Uyển, từ hôm
đó ngoài Bụt đă có cả thảy sáu mươi
vị khất sĩ. Bụt ở lại vườn
Lộc Uyển thêm ba tháng nữa để dạy dỗ
và hướng dẫn đại chúng xuất gia. Trong
thời gian ấy hàng trăm vị cư sĩ đă
đến vườn Nai để xin Bụt chấp
nhận cho làm đệ tử cư sĩ.
Bụt dạy các vị khất sĩ về
phép quán niệm hơi thở, quán niệm về thân
thể, về cảm giác, về tri giác, về tâm ư và
về đối tượng của tâm ư. Người
cũng dạy phương pháp quán chiếu tự tính duyên
khởi của vạn hữu trong thế giới hiện
tượng.
Phép duyên khởi là một phép quán rất quan
trọng trong công tŕnh tu tập. Vạn vật nương
vào nhau để phát hiện, tồn tại rồi ẩn
diệt; chính v́ nương vào nhau nên mọi vật mới
có thể có mặt và v́ vậy trong cái một, có cái tất
cả, và cái tất cả cũng không thể có mặt nếu
cái một không có mặt.
Phép quán duyên khởi này là cánh cửa, do đó
người tu thoát được ra khỏi sinh tử.
Phép quán duyên khởi cũng có công năng phá trừ
những định kiến lâu đời như
định kiến vũ trụ đă được
một nguyên do đầu tiên sinh khởi, dù nguyên do đó
là một vị thần linh hay là một chất liệu
làm căn bản cho hiện hữu như đất,
nước, lửa hay là không khí.
Với t́nh thương, với ư thức trách
nhiệm của một bậc thầy, cũng như
của một anh cả, Bụt chăm sóc và dạy dỗ
sáu mươi vị khất sĩ một cách tận t́nh.
Người lại giao phó cho năm người đệ
tử đầu trách nhiệm d́u dắt các vị khất
sĩ mới học. Kondanna d́u dắt hai mươi
vị. Bốn người khác, Bhaddiya, Vappa, Mahana và Assaji,
mỗi người d́u dắt mười vị.
Đại chúng bước những bước rất
vững và mạnh trên con đường tu học.
Khi thấy phần lớn các vị khất
sĩ dưới sự hướng dẫn của ḿnh
đă có được bản chất và tư cách của
những người hành đạo, Bụt tập hợp
đại chúng và nói:
- Các vị khất sĩ, xin hăy nghe tôi nói. Chúng
ta là những con người tự do, không vướng
bận và không bị ràng buộc vào bất cứ một
cái ǵ. Quư vị đă biết đường đi. Quư
vị hăy tinh tiến dũng mănh bước trên con
đường ấy. Quư vị có thể rời khuôn viên
Lộc Uyển. Hăy đi như những con người
tự do để mang ánh sáng của đạo tỉnh
thức đến tận những chốn hang hố
thẳm. Đi để gieo rắc hạt giống
giải thoát và giác ngộ. Đi để đem an lạc
đến cho con người. Quư vị hăy dạy
đạo lư giải thoát, nền đạo lư đẹp
đẽ từ đầu đến cuối, từ h́nh
thức cho đến nội dung. Nhân gian sẽ thừa
hưởng được công tŕnh hoằng pháp của quư
vị, c̣n tôi, tôi cũng sẽ lên đường. Trong ít
lâu nữa, tôi sẽ đi về phương Đông. Tôi
muốn về thăm cội bồ đề và các em bé
ở thôn Uruvela, và sau đó tôi sẽ về thăm một
người bạn tri kỷ ở Rajagaha.
Các vị khất sĩ nghe theo lời Bụt
dạy. Một số lớn khoác y và mang bát lên
đường hành hóa.
Chỉ c̣n mươi thầy ở lại
vườn Lộc Uyển với Bụt.
Nhưng từ mấy tháng nay, tại hai
vương quốc Kasi và Magadha, nhiều người
đă nghe nói tới Bụt và các đệ tử của
người. Họ nghe nói có một vị hoàng tử ḍng
họ Sakya đi tu đă thành đạo và đang giảng
dạy tại vườn Lộc Uyển gần thành
Baranasi. Nghe tin này nhiều vị sa-môn từng tu tập lâu
ngày mà chưa đạt ngộ được ǵ rất
lấy làm phấn khởi.
Từ nhiều địa phương khác nhau
họ t́m về Isipatana. Nh́ều người đă sung
sướng được nghe Bụt thuyết pháp và
đă phát nguyện sống đời xuất gia
dưới sự chỉ dạy của người.
Các vị khất sĩ học tṛ của
Bụt đi hoằng hóa mọi nơi cũng đă
bắt đầu đưa về vườn Lộc
Uyển rất nhiều thanh niên muốn được
xuất gia. Số lượng học tṛ xuất gia
của Bụt v́ vậy lại tăng lên rất chóng.
Một hôm Bụt tập họp đại
chúng lại. Người nói:
- Các vị khất sĩ! Tôi nghĩ rằng
tôi không cần trực tiếp làm lễ thọ giới
xuất gia cho tất cả những ai muốn sống
đời sống phạm hạnh theo con đường
tỉnh thức. Nếu bất cứ ai muốn xuất
gia đều phải về vườn Lộc Uyển
gặp tôi, th́ điều đó sẽ gây ra nhiều
bất tiện. Điều bất tiện thứ nhất
là các thầy phải bỏ dỡ công việc hoằng hóa
để đưa người giới tử về
tận đây.
Điều bất tiện thứ hai là
người giới tử không được thọ
giới ngay tại chỗ cư trú của ḿnh với
sự có mặt của bạn bè và những người
thân thuộc, trái lại phải đi đường dài
có khi mất cả mười mấy ngày mới tới
được đây.
Điều bất tiện thứ ba là tôi
bị bắt buộc ở tại đây măi măi. Tôi cũng
là một con người tự do như quư vị, và tôi
cũng muốn được tự do đi đâu th́ tùy
ư tôi. V́ vậy tôi nghĩ rằng các thầy có thể làm
lễ truyền giới xuất gia cho những giới
tử nào hợp đủ điều kiện, và làm
lễ ngay tại địa phương hành đạo
của ḿnh.
Đại đức Kondanna đứng lên
chắp tay:
- Lạy Bụt, như vậy th́ xin Bụt
dạy cho chúng con phương pháp làm lễ xuất gia cho
người phát tâm tu học để chúng con có thể làm
lấy khi trường hợp xảy ra.
Bụt nói:
- Th́ quư vị đă từng thấy tôi làm
lễ xuất gia cho nhiều người rồi. Quư
vị cũng có thể làm như thế.
Vị khất sĩ Assaji đứng dậy
tŕnh bày:
- Lạy Bụt, nhân cách của Bụt rất
lớn, thành ra người không cần phải có nghi
thức rườm ra, nhưng đối với chúng con,
một nghi thức tối thiểu để sử
dụng trong lúc làm xuất gia rất là cần thiết.
Sư huynh Kondanna, xin sư huynh đề nghị một
nghi thức đi. Có Bụt ở đây, người sẽ
chỉ dạy cho chúng ta thêm.
Khất sĩ Kondanna im lặng một lát
để suy nghĩ, rồi ông lên tiếng:
- Lạy Bụt, theo con th́ việc
trước tiên là phải cho người giới tử
cạo sạch râu tóc. Sau đó, giới tử
được dạy cho cách mặc áo ca-sa. Khi mặc ca-sa
vào rồi, giới tử phải vạch trần vai bên
phải ra theo nghi lễ và quỳ xuống trước
mặt vị khất sĩ truyền giới. Vị
khất sĩ này bây giờ là đại diện cho
Bụt, v́ vậy, giới tử quỳ xuống
dưới chân người là phải. Chắp tay lại
thành búp sen, giới tử đọc:
- "Con nương tựa Bụt,
người đưa đường chỉ lối cho
con trong cuộc đời này. Con về nương tựa
Pháp, con đường của t́nh thương và sự
hiểu biết. Con về nương tựa Tăng,
đoàn thể của những nguyện sống cuộc
đời tỉnh thức". Lặp lại ba lần
như vậy th́ giới tử trở nên một vị
khất sĩ trong giáo đoàn của Bụt. Lạy
Bụt, con mạo muội đề nghị như
thế, không biết con có phạm vào lầm lỗi nào
không?
Bụt dạy:
- Nghi thức thầy đề nghị hay
lắm. Vậy tôi xin xác định với đại
chúng; quư vị đọc ba lần tam quy dưới chân
một vị khất sĩ th́ có thể trở nên một
vị khất sĩ.
Đại chúng hoan hỷ tuân theo lời
Bụt dạy.
Sau đó mấy hôm, vào một buổi sáng
đẹp trời. Bụt khoác áo, cầm bát, một ḿnh
rời khỏi vườn Lộc Uyển. Người
hướng về phương Nam, t́m lối vượt
sông Hằng để đi về vương quốc
Magadha.
chương hai mươi
lăm
Đỉnh
Con đường này Bụt đă từng
đi. Người đi thong thả và ngắm nh́n cảnh
vật.
Trời gần trưa, người ghé
khất thực ở một xóm ven đường,
rồi người mang bát đi vào một khu rừng yên
tĩnh gần đó để thọ trai. Thọ trai xong,
Bụt đi kinh hành trong rừng và sau đó người
t́m một gốc cây im mát ngồi xuống để
tĩnh tọa. Được sống trở lại
một ḿnh trong rừng, Bụt rất hoan hỷ.
Người ngồi tĩnh tọa
được hồi lâu th́ thấy một đám thanh niên
đi ngang. Đây chắc là những thanh niên con nhà khá
giả, bởi v́ người nào cũng ăn mặc
tươm tất sạch sẽ. Họ vào khoảng ba
mươi người. Nhiều người cầm
nhạc cụ trong tay. Thấy Bụt, họ ngưng lại,
thanh niên đi đầu cúi chào và hỏi người:
- Sa-môn, ông có thấy một cô gái mới
chạy ngang qua đây không?
Bụt hỏi lại:
- Các bạn t́m cô gái ấy để làm ǵ?
Người thanh niên kể lại đầu
đuôi câu chuyện. Bọn họ đều là dân thành
phố Banarasi. Họ vào rừng nầy từ sáng
để tổ chức một cuộc vui. Họ có
đem theo nhiều nhạc cụ và một cô vũ nữ.
Sau khi đàn hát, múa nhảy và ăn uống, cả bọn đều
t́m chốn ngă lưng để ngủ trưa. Trong khi
mọi người ngủ trưa, cô gái đă đánh
cắp một số những đồ châu báu trang sức
của bọn con trai và bỏ đi mất. Các chàng trai
thức dậy thấy thế rủ nhau đi lùng bắt
B
- Nầy các bạn, trong giờ phút này các
bạn nên đi t́m cô gái hay là nên đi t́m chính các bạn?
Các cậu con trai ngạc nhiên. Phong thái của
ông thầy tu đă đặc biệt mà câu hỏi của
ông ta cũng đặc biệt. Câu hỏi đó làm các
cậu giật ḿnh. Họ rủ nhau ngồi xuống, vây
quanh Bụt. Chàng trai đầu đàn nói:
- Bạch sa-môn, có lẽ chúng con nên đi t́m
chúng con trước.
Bụt nói:
- Sự sống chỉ có mặt trong giây phút
hiện tại, nhưng tâm ta ít khi chịu an trú trong giây
phút hiện tại. Tâm ta hay ưa trở về quá khứ
hoặc vọng đến tương lai. Ta cứ tưởng
ta là ta, nhưng quả thực ta chưa hề thực
sự tiếp xúc ta với ta, bởi v́ tâm ta cứ rong
ruổi chạy theo những ảo ảnh của quá
khứ và của vị lai. Chỉ có một phương
cách duy nhất để tiếp xúc với sự sống
đích thực: đó là trở về với giây phút
hiện tại. Nếu các em biết trở về với
giây phút hiện tại th́ các em trở nên tỉnh thức,
và lúc đó các em mới có cơ hội t́m được các
em. Các em hăy nh́n những đọt lá xanh và ánh sáng mặt
trời đang lọc qua những đọt lá ấy. Các
em đă từng có dịp thật sự ngắm nh́n màu xanh
của lá cây trong trạng thái trầm lặng và tỉnh
thức của tâm tư chưa. Màu xanh ấy là một khía
cạnh vi diệu của sự sống. Nếu các em
chưa bao giờ thực sự nh́n màu xanh ấy th́ bây
ǵờ đây các em hăy thử nh́n đi.
Các chàng thanh niên yên lặng. Theo ngón tay trỏ
của Bụt, họ ngước nh́n những ngọn lá
xanh đang run nhẹ dưới làn gió thoảng của
buổi trưa hè. Một lát sau, Bụt quay lại với
chàng trẻ tuổi ngồi gần bên người, và nói:
- Em có ống sáo, vậy em hăy thổi sáo
đi.
Chàng thanh niên hơi ngạc nhiên một chút,
nhưng cũng lấy sáo ra. Ngồi lại ngay ngắn,
anh ta đưa sống sáo lên thổi. Mọi người
lắng nghe. Tiếng sáo đượm buồn như tiếng
than khóc của một cuộc t́nh duyên lỡ dỡ. Trong
khi anh thổi sáo, mắt Bụt không rời khỏi anh.
Khúc sáo chấm dứt. Rừng trưa
đượm buồn. Mọi người im lặng,
Bụt cũng im lặng.
Bỗng nhiên người thanh niên thổi sáo
quay lại, cầm đưa ống sáo cho Bụt:
- Sa-môn, ngài thổi sáo đi.
Bụt mỉm cười. Tất cả các
chàng trai đều cười rộ. Ai cũng cho anh chàng
là ngộ nghĩnh. Đă có ai đưa ống sáo
để bảo một vị sa-môn thổi bao giờ.
Nhưng Bụt đă đưa hai tay tiếp
nhận ống sáo. Mọi người đều nh́n
về vị sa-môn, sự ṭ ṃ trong mỗi người
được kích thích.
Bụt thở những hơi thở thật
dài và thật nhẹ, rồi người nâng ống sáo lên
ngang miệng.
H́nh ảnh người con trai thổi sáo
năm xưa trong vườn Thượng Uyển thành
Kapilavatthu hiện ra trong Bụt. Đó là một đêm
trăng. Đó là bà Maha Pajapati ngồi trên ghế đá
đang im lặng lắng nghe. Đó là Yasodhara với
đỉnh trầm thơm mới đổi.
Bụt bắt đầu thổi sáo.
Tiếng sáo nhẹ như một làn khói
nhỏ lơ lửng và nhẹ nhàng đi lên từ một
mái tranh nghèo nào đó ở ngoại thành Kapilavatthu trong
giờ nấu cơm chiều. Rồi làn khói bỗng nhiên
tỏa rộng trên không gian như một đám mây.
Đột nhiên đám mây biến h́nh thành
một đóa hoa sen ngàn cánh, mỗi cánh hoa một màu
sắc khác nhau lấp lánh trong ánh nắng chiều.
Đột nhiên một người thổi sáo biến thành
một ngàn người thổi sáo, tất cả những
mầu nhiệm của vũ trụ đều
được chế biến thành âm thanh, âm thanh muôn màu
muôn sắc, âm thanh khi th́ nhẹ như gió thoảng, khi th́
mau như tiếng mưa rào, khi th́ trong như tiếng
hạc, khi th́ đậm đà như tiếng ru con, khi th́
sáng rỡ như ngọc lưu ly, khi th́ hùng vĩ như
tiếng hải triều, khi th́ im lặng như nụ
cười của người đă thoát ly
được sự hơn thua c̣n mất. Chim chóc trong
rừng đă im hơi lặng tiếng và gió chiều
cũng đang thổi ŕ rào trong lá. Rừng được
bao phủ bởi một không gian thanh tịnh, an lạc và
nhiệm mầu. Tất cả các chàng thanh niên ngồi bên
Bụt đều trở nên tỉnh táo một cách kỳ
lạ. Họ hoàn toàn sống trong giây phút hiện tại, tiếng
sáo đưa họ về với những mầu nhiệm
của giây phút hiện tại. Họ có rừng cây, họ
có Bụt, họ có tiếng sáo, họ có nhạc, họ có
bản thân họ. Tiếng sáo đă chấm dứt,
nhưng tiếng sáo vẫn c̣n, không có chàng thanh niên nào
nghĩ tới cô vũ nữ và những châu ngọc bị
đánh cắp.
Họ ngồi yên lặng rất lâu. Cuối
cùng chàng thanh niên thổi sáo lên tiếng hỏi Bụt:
- Sa-môn, thầy thổi sáo thật hay, con
chưa bao giờ nghe ai thổi sáo diệu kỳ như
vậy. Thầy đă học với ai? Con có thể theo
thầy để học thổi sáo được không?
Bụt mỉm cười:
- Hồi nhỏ, tôi đă học thổi sáo,
nhưng bảy năm nay tôi không có dịp thổi. Đây
là lần thứ nhất tôi thổi sáo trở lại sau
bảy năm, nhưng tiếng sáo bây giờ lại có
chất liệu hơn tiếng sáo ngày trước.
- Tại sao thế, thưa sa-môn? Tại sao sau
bảy năm không tập dượt mà tiếng sáo
thầy lại hay hơn?
- Thổi sáo hay không phải là chỉ do
tập dượt nhiều. Sở dĩ tôi thổi được
hay hơn ngày xưa là tại v́ tôi đă t́m được
chính tôi. Nghĩa là tôi đă t́m ra được đạo
giác ngộ. Em không thể đạt được tới
chỗ tuyệt vời của nghệ thuật nếu em
không lên tới được chỗ tuyệt cùng của
tâm linh. V́ vậy nếu em muốn thổi sáo hay th́ em
phải tu học theo con đường tỉnh thức.
Rồi Bụt bắt đầu giảng cho
các chàng thanh niên về đạo giác ngộ, về bốn
sự thật và con đường Bát Chánh. Ba mươi
người thanh niên nghe người giảng đều
được tỏ ngộ. Tất cả đều
quỳ xuống tỏ ư xin làm môn đệ xuất gia
của người.
Bụt vui ḷng làm lễ xuất gia họ ngay
tại chỗ, và bảo ba mươi chàng thanh niên t́m ngay
về vườn lộc Uyển để gặp
đại đức Kondanna, Ngựi dặn họ tŕnh bày
tự sự với thầy Kondanna và xin thầy cho cạo
bỏ râu tóc, khoác áo khất sĩ và thọ lănh những
lời chỉ dẫn tu học. Người bảo trong
một tương lai gần họ sẽ được
gặp lại người.
Đêm ấy, Bụt nghỉ trong rừng. Sáng
hôm sau, người vượt sông Hằng, rồi theo
bờ sông đi về phương Đông. Người
dự định sẽ ghé thăm bọn trẻ tại
thôn Uruvela, trước khi đi về Rajagaha gặp vua Bimbisara
theo lời hứa cũ.