PHẦN
THỨ NHẤT
IV
Nguyên
Hưng, không phải tôi chỉ nghe tiếng gọi mầu
nhiệm kia trong lúc trăng và rừng nói chuyện hay trong
những cơn mưa lớn đầu mùa. Tôi lại c̣n
nghe tiếng gọi ấy và những buổi trưa
rất là yên lặng nữa. Những buổi trưa ở
quê hương ta, những buổi trưa mà Lưu
Trọng Lư nghe thấy cả tiếng gà năo nùng xao xác
gáy, những buổi trưa mà Vũ Anh Khanh thấy cả
nắng lổ đổ rụng lên đầu
người viễn khách ở xóm đạo vắng
người. Những buổi trưa ấy miền
Bắc cũng có, miền Trung cũng có, mà miền Nam
cũng có. Tôi không tin rằng buổi chiều, dù rằng
những buổi chiều nh́n ra cửa biển, là lúc
gợi buồn nhiều nhất. Buổi chiều
đối với tôi dù là ở đâu cũng chỉ là đẹp
thôi, chứ không buồn. Chỉ có một lúc duy nhất
trong ngày có thể gọi là buồn: đó là buổi
trưa, vào khoảng một giờ, hay trễ hơn
một chút. Buổi chiều cũng như buổi mai, bao
giờ cũng linh động, biến ảo và tràn
đầy sức sống. Buổi chiều đă không mang
màu sắc tàn tạ như người ta thường
tưởng, mà trái lại c̣n hứa hẹn một sức
sống rạt rào vào đêm. Tôi thấy vũ trụ sống
về ban đêm nhiều hơn. Ban đêm, cái ǵ cũng linh
động, cũng mầu nhiệm, cũng hùng mạnh.
Chỉ có loài người mới ngừng hoạt
động trong đêm, chớ vũ trụ, từ
trăng sao nước mây đến trùng dế cây cỏ
đều ŕ rào mầu nhiệm. Nếu nói đến
giờ ngưng đọng, ấy phải là giờ
buổi trưa, lúc quá ngọ một chút. Không có một giọt
gió. Trời cao cao quá, cao đến im ĺm, cao cho
đến nỗi trở nên vô cùng sâu thẳm. Cây cối
như chết đứng; không nói năng được
một lời nào trong giây phút ấy. Mặt trời như
thôi miên trái đất và điểm huyệt trái
đất bằng con mắt lửa hung hăn của nó
khiến trái đất và muôn loài trên trái đất trở
thành bất động không c̣n cựa quậy
được nữa. Tôi dám chắc rằng đúng vào
giờ phút ấy trái đất không thể nào c̣n quay được.
Phải đợi cho đến khi nào có một đám mây
hoặc một tí gió tới cứu văn th́ trái đất
mới thoát khỏi được t́nh trạng bị
điểm huyệt và mới có thể tiếp tục
cuộc hành tŕnh. Nếu ta thiếp đi vào buổi
trưa trong một giấc ngủ ngắn mà thức
dậy đúng vào giờ phút ngưng đọng ấy, th́
lập tức ta nghe tiếng gọi. Tôi nghe tiếng
gọi như thế đă có đến hàng trăm
lần rồi Nguyên Hưng, mà lần nào trái tim tôi cũng
hồi hộp như nhau. Mà v́ vừa mới thiếp
đi cho đến lúc chợt tỉnh tôi nghe nó không
phải với lư trí của tôi mà với tất cả
biển tiềm thức c̣n đương dâng tràn, c̣n
chưa kịp rút xuống khỏi lằn mức ư
thức. Tôi nghe tiếng vũ trụ gọi tôi về,
và tất cả bản thể tôi rung động đáp
lại tiếng gọi ấy.
Nguyên
Hưng, ơ ûPhương Bối tôi cũng trải qua
bốn lần nghe như vậy. Rừng cây ít khi nào
đứng chết lặng như trong những lúc ấy
và trời không bao giờ cao như thế, sâu như
thế. Trong giây phút kia, tôi thấy ḷng ngập nhớ nhung
và một niềm thao thức muốn trở về. Trở
về theo tiếng gọi mầu nhiệm. Những lúc
ấy tôi có cảm giác như đứng ở một biên
giới có sương mù. Nếu tôi làm tan được
sương mù ấy, tôi có cảm tưởng nó có thể
tan biến trong bất cứ một sát na nào, dễ như
không, dễ như nó chưa bao giờ từng hiện
hữu, em ơi.
Nguyên
Hưng, để tôi nhắc lại cho Nguyên Hưng nghe
về đem giao thừa đầu tiên ở Phương
Bối. Từ hôm hai mươi sáu Tết, Triều Quang,
Từ Mẫn và Thanh Hiện đă tự động kéo
về Phương Bối, như con trở về nhà cha
mẹ vào những ngày giỗ lớn. Quang ở Dalat về
mang theo rất nhiều nhánh bạch mai thật đẹp.
(Trước đó, chị Diệu Âm đă cho Như
Hiền đem tặng cho chúng ta rất nhiều cây
bạch mai con để trồng quanh nhà). Chúng ta bàn với
nhau ăn một cái Tết lớn nhất trong
đời chúng ta, và ăn tại Phương Bối.
Sau một đêm bàn luận, chúng ta đồng ư như sau:
1)
Đốt một đống lữa vĩ đại ngay
trên đồi Thượng.
2)
Cắm trại ở đồi Thượng.
3)
Nấu một thùng bánh chưng ở trên đồi
Thượng.
4)
Cúng giao thừa, đốt pháo ở đồi
Thượng.
5)
Hội họp ăn bánh chưng, chúc Tết và b́nh văn
ở đồi Thượng.
Cái
đống lữa vĩ đại ấy, chắc trong
chúng ta không ai có thể quên được. Nguyên Hưng
cũng nhớ là để phá rừng trồng trà chúng ta
phải đốn ngă hàng trăm cây rừng thật
lớn. Những cây ấy, sau khi chúng ta đốt
rừng, đă bị cháy xém và khiêng chất thành lại
thành đống. Chúng ta đă tốn hết hơn hai ngày
mới chất được đống củi. V́
vậy đống củi lửa trại to lớn như
một cái nhà và đă được chất lên một cách
rất công phu. Trong ḷng đống củi vĩ
đại, chúng ta đă đặt rất nhiều cỏ
khô, lá khô và các cành củi rất dễ bén lửa.
Đống củi đă cháy suốt đêm giao thừa và
măi đến sáng ngày mồng hai vẫn c̣n cho ta than
hồng. Nguyên Hưng nhớ không?
Ban
đầu th́ một số trong chúng ta không tán thành ư
kiến cắm trại trên đồi Thượng v́
sự sương khuya. Nhưng sau lại, chúng ta quyết
định cứ căng lều trên đồi, bởi v́
đống lửa vĩ đại sẽ làm tan
sương và ấm cả khu đồi. Mà thực
vậy, Nguyên Hưng. Không những chúng ta thấy ấm mà
nhiều khi c̣n thấy nóng bức là khác nữa.
C̣n
bánh chưng, Lư là người Bắc và lư tuyên bố có
thể gọi bánh chưng vào hạng đẹp nhất
Bắc Hà. Ban đầu ai cũng tưởng là Lư chỉ
“ăn to nói lớn” theo kiểu một nhà văn như Lư,
nhưng sau khi thấy Lư trổ tài, ai cũng phục
lắm. D́ Tâm Huệ mua nếp, đỗ xanh và cung cấp
lá rong tươi cho Lư. Hôm gói bánh tôi cũng làm phụ tá cho
Lư trong việc lau lá, xếp lá, rọc lá. Lư làm một cái
khuôn nhỏ và gói những chiếc bánh chưng nhỏ xíu,
vuông vắn, thật đẹp. Bánh chưng
được nấu từ lúc năm giờ rưỡi
chiều để kịp chín nữa giờ trước
giờ Giao Thừa. Mẫn và Hiện đă bắc hai
bếp gần dưới chân đồi Thượng,
một bếp để luộc bánh chưng, một
bếp khác để nấu nước sôi tiếp cho
nồi bánh. Bếp phải đặt phía dưới,
bởi v́ gần đỉnh đồi quá th́ sẽ nóng v́
đống lửa đỉnh đồi.
Cả
nhà chuẩn bị ăn Tết một cách rộn rịp
và chính sự chuẩn bị rộn rịp để
ăn Tết ấy quả đă là Tết một cách
đích thực rồi. Từ lúc ba giờ chiều, Nguyên
Hưng và Triều Quang đă vào rừng đốn về
những cây tre lớn và cưa ra từng ống một, chất
đầy bên lều. Khi thùng bánh chưng sôi, tất cả
chúng ta đều tắm rửa, quây quần trong chiếc
lều lớn nhất cắm trên đồi, nghỉ
ngơi, nghe chương tŕnh phát thanh cuối năm của
đài Saigon từ chiếc Sony quen thuộc và ăn cơm,
một bữa cơm chiều thật đơn giản.
Tha hồ cho chúng ta nói chuyện bốn phương.
Hồi ấy thường trú tại Phương Bối
mới chỉ có Nguyên Hưng, Lư, Tuệ, d́ Tâm Huệ và
tôi, c̣n những người khác là “chim bốn phương
bay về đây cả”. Những con chim ấy bay về
Phương Bối và tíu tít kể cho nhau nghe những
mẩu sinh hoạt những câu chuyện những biến
cố đă xảy ra cho chúng từ những phương
trời khác nhau. Không ai là không thấy rơ rằng
Phương Bối chính là alma maier của ḿnh.
Trên
những cây cao c̣n lại của đồi Thượng và
cả trên lan can của thiền thất nữa, Mẫn và
Lư đă treo đèn. Vào lúc mười giờ rưỡi,
Nguyên Hưng ra lệnh đốt lửa. Thế là chỉ
trong nửa giờ sau, đống lửa cháy rực
trời trên đồi Thượng. Tàn lửa lên cao, cao
ngất, khiến cho một vài người trong số chúng
ta tỏ ư lo ngại cho sự cháy rừng. Nguyên Hưng
nghĩ, cháy rừng làm sao được khi tàn lửa
phải bay lên được bốn trăm thước
mưói tới được cửa rừng? Tuy vậy,
đống lửa vĩ đại soi sáng rực rỡ cả
một vùng núi hoang dại. Bởi v́ đồi
Thượng là chiếc đồi cao nhất trong vùng.
Chúng ta trông rơ tất cả những vùng núi bao quanh
Phương Bối nhờ ánh lửa rực trời trên
đồi Thượng. Có lẽ tất cả thú vật,
dân chúng của núi rừng đang ngạc nhiên, và qua kẻ
lá, đang hướng những cặp mắt nh́n về
đồi Thượng. Xa xa, ta có thể trông thấy ngôi
nhà của Đại Hà thấp thoáng trong đồi núi
chập chùng. Mười một giờ rưỡi khuya
rồi và đống lửa đă cháy lên rất cao. Chúng ta
trở về thiền thất cúng giao thừa. Chiếc
bánh đầu tiên vớt ra đă được đem lên
cúng Phật. Buổi lễ đơn giản và ấm áp
chỉ kéo dài vào khoảng 20 phút. Giao thừa đến
Mẫn, Hưng, Quang, Hiện, Lư, tất cả đều
mang các ống tre liệng dần vào đống lửa
vĩ đại. Đó là pháo lệnh giao thừa của
Hưng đấy. Các ông tre liên tiếp nổ lớn vang
động cả núi rừng và có lẽ làm kinh hoàng cả
mọi loài ẩn náu trong rừng. Tôi c̣n nhớ là các
cậu đă quăng vào đống lửa năm
mươi mấy ống pháo tre như thế, và không có
ống tre nào là không nổ lớn.
Bánh
chưng của Lư quả thật là rất ngon - có lẽ
cũng ngon nhờ những điều kiện khác nữa,
như là không khí đặc biệt của Phương
Bối, sự hiểu biết của mọi người,
vui vẻ của mọi người và nhất là sự…
đói bụng của mọi người. Nói như
thế không có hại ǵ đến cái “uy tín” gói bánh của
Lư cả. Mỗi người trong chúng ta phải chúc
tất cả mọi người và như thế chúng ta
nghe tất cả đến năm mươi bốn câu
chúc tết. D́ Tâm Huệ tỏ vẻ nhiều e thẹn
nhất dù d́ lớn tuổi bằng d́ của tất
cả chúng ta, và d́ đă chúc cho tất cả những câu
chúc đơn sơ mà chân thành cảm động.
Tôi
nhớ suốt ngày mồng một tết các cậu dă chia
thành hai ba toán rủ nhau đi chơi thám hiểm núi
rừng. Đến đâu cũng đốt lửa,
chặt tre làm pháo đốt vang cả rừng. Thầy Thanh
Từ chưa có mặt ở Phương Bối trong cái
tết thứ nhất ấy. Nhưng trong cái tết
thứ hai, thầy cũng tham dự những tṛ nghịch
ngợm nhất của mọi người. Ở đây ai
cũng dễ dàng sẵn sàng để mà “đồng
sự”. Kiểu chào của thầy Thanh Từ cũng thay
đổi như tất cả mọi người và
cả đến những kiểu sinh hoạt khác như
đi núi, trồng cây, cắm trại nữa.
Lần
đầu lên Phương Bối thăm, thầy Thanh
Từ đă tỏ sự ưa thích Phương Bối
một cách mặn nồng. Thầy bảo chúng ta
nhường cho thầy một ít vùng núi để làm
thiền thất. Tôi nói: tất cả rừng núi
Phương Bối là của thầy. Thế là sau đó
vài ba tháng, nhờ sự giúp đỡ của vài
người bạn thân của thầy, chúng ta đă
dựng nên một thiền thất ở triền Đông
Bắc của đồi Thượng. Nhà thiền này
được đặt tên là Thiền Duyệt
Thất. Duyệt có nghĩa là sự vui vẻ hoan lạc
về tinh thần. Trong bài cúng dường của
Nhị Thời Khóa tụng, ta thấy có câu thiền
duyệt vi thực nghĩa là thức ăn làm
bằng sự hoan lạc của thiền định.
Thầy Thanh Từ nghe đặt tên cho nhà thiền như
thế th́ chịu lắm bèn chấp nhận ngay.
Bên
cạnh Thiền Duyệt Thất, chúng ta c̣n xây thêm
một cái hồ chứa nước nữa và thầy Thanh
Từ đă tự tay làm một chiếc giàn hoa leo thật
đẹp phía trước. Hai bên con đường
từ dưới đồi đi lên, thầy đă
trồng những cây thông con bứng về từ Djiring.
Thầy lại c̣n trồng thêm bao nhiêu là thứ hoa nữa
xung quanh thất. Lúc Thiền Duyệt Thất làm xong, th́
chiếc nhà Thượng cũng được khởi
công dựng trên chót vót đỉnh đồi. Hai người
có công nhất là Triều Quang và Nguyên Hưng. Hợp tác
với anh Phương ở ngoài xóm và với hai
người Thượng nữa Quang và Hưng đă hoàn
thành được chiếc nhà duyên dáng ấy trong ṿng
một tháng. V́ đứng chót vót trên đỉnh
đồi nên nhà Thượng phải được
tạo dựng vững chăi. Tôi biết Nguyên Hưng đă
tốn rất nhiều công phu vào ngôi nhà ấy. Tôi đă
cùng Nguyên Hưng trang trí bên trong và bên ngoài nhà Thượng.
Sau này chính nhà Thượng trở thành h́nh ảnh
tượng trưng nhất của Phương Bối.
Buổi chiều chúng ta hay quây quần bên nhà Thượng
cho đến tối, và nhiều đêm chúng ta đem
chăn ngủ ngay ở sàn nhà Thượng. Có đêm rét quá
mà trên đồi th́ nhiều gió, chúng ta bắt buộc ôm
chăn rời nhà Thượng nửa đêm để
về nhà cũ. Tôi không quên được những đêm
chúng ta đứng trên lan can nhà Thượng ngắm sao
ngắm trăng. Những đêm như thế thật là
huyền diệu. Sao và trăng gần chúng ta quá. Nhất là
sao Mai. Lớn gần bằng một mặt trăng. Không
biết ở những nơi như Trúc Lâm, Toàn có thấy
sao Mai lớn như thế không. Có những đêm tôi kéo Lư
ra khỏi những đống bản thảo dày cộm
của Lư để chỉ cho Lư thấy trăng sao
thấy sao. Tôi th́ cũng ham viết lắm, nhưng vào
những đêm nhiều sao như thế này, tôi không
thể nào viết được.
Nguyên
Hưng, tôi nghe Phương Bối đă trở nên bất
an quá, cho nên thầy Thanh Từ cũng đă rời
Thiền Duyệt Thất mà về Phú Lâm rồi. Thật là
buồn. Hôm tôi từ giả Phương Bối, tôi
tưởng thầy Thanh Từ có thể ở lại
Phương Bối b́nh yên. Nhưng mà không. Lâu nay Nguyên
Hưng có tiếp xúc với thầy Thanh Từ bằng
thư không? Hôm qua, tôi có viết cho thầy Thanh Từ
một lá thư. Lá thư c̣n để đây, chưa có
dịp gởi nhà giây thép. Tôi đă viết lá thư ấy
trong một tâm trạng b́nh yên và yêu thương. Nhưng
chỉ những người thuộc về “thánh
địa” Phương Bối như thầy Thanh Từ,
như Hưng, như Lư mới hiểu được
tại sao tôi có thể viết như thế mà thôi. Thôi
để tôi chép cho Nguyên Hưng đọc một
đoạn trong lá thư đó. Đoạn này nằm
ở giữa lá thư.
“Tôi đă t́m ra chân lư rồi. Trời ơi có
phải là nghe câu ấy thầy đang ôm bụng
cười tôi phải không? Tôi nói thật đó mà. Khi tôi
thấy nó, tôi giật ḿnh. Nó không phải là ai xa lạ
cả. Nó là, thầy ơi, nó là kẻ mà tôi đă gặp
từ lâu, đă biết rơ mặt mũi từ lâu. Nó không
có chi mới lạ đối với tôi cả. Thế mà
tại sao lâu nay, có tới ngàn vạn kiếp rồi, tôi
không nhận diện được nó. Lần này thấy
nó, tôi ngạc nhiên đến nỗi không biết làm ǵ
hơn là phá lên cười. Cũng giống như bây
giờ thầy đang ôm bụng cười tôi vậy.
Tôi hỏi: “Tôi tưởng tên của cậu mày
hay như thế th́ mặt mũi cậu phải
đẹp lắm kia chứ?”.
Nó hỏi lại: “Vậy thầy thấy tôi
xấu hay sao?”.
Tôi giật ḿnh nó lại, th́ quả thực nó
không xấu.
Nó lại hỏi: “Hởi người đă t́m
thấy tôi, người sẽ làm ǵ chiều hôm nay?”
Tôi nghiêm trọng trả lời: “Ta sẽ đi
ăn cơm khi ta thấy đói bụng, và sẽ ngủ
khi ta thấy buồn ngủ.”
Thầy ơi, hôm từ giă phi trường Tân
Sơn Nhất, tôi có mang theo một cái hột gà. Tôi như
một con gà ấp trứng, và luôn luôn có một cái hột
gà để ấp, đêm và ngày. Tôi mang theo qua bên này
một cái hột gà đă ấp từ sáu bảy hôm nay, và
những kẻ đưa tôi ra phi trường không có ai hay
biết. Họ chỉ biết tôi mang theo một cái áo
lạnh và một cây viết Pilot. Nhân viên quan thuế không
biết, mà tôi cũng không biết phải khai báo ra làm sao.
Tôi nín thinh. Nhưng mà tôi tin ngồi ở Thiền Duyệt
Thất, thầy có thể biết. Tôi nhớ cũng đă
từng nói cho thầy nghe và hứa với thầy là khi nào
hột gà nở ra con gà th́ tôi tin cho thầy hay. Thầy có
nhớ điều đó không? Hôm nay tôi có thể tin cho
thầy biết là thêm một năm ấp ủ, và do khí
hậu thuận lợi, con gà đă mổ được
vỏ quả trứng và chui ra ánh sáng. Ra khỏi vỏ nó
lớn rất mau chóng, không khác ǵ cậu bé Phù Đổng
năm xưa.
Đêm mồng bảy tháng năm vừa qua, tôi
được chứng kiến một cuộc đàm
thoại giữa Đức Phật và Ma
“Đức Phật: Xin mời Ngài ngồi.
Ba Tuần: Xin cám ơn Ngài. Gớm cái ông thị
giả của Ngài khó tính quá. Khi tôi xưng danh hiệu, ông
ta nhất định không cho tôi vào. Ông nói: Nhà ngươi
c̣n đến đây làm ǵ? Ngươi không nhớ năm
xưa dưới gốc cây Bồ Đề, ngươi
đă bị đức Thế Tôn đánh bại hay sao? Ngài
sẽ không tiếp nhà ngươi đâu. Nhà ngươi là
kẻ thù của Đức Phật”. Tôi phải nói khích
một câu ông ấy mới cho vào.
Đức Phật (cười): Ngài nói khích
như thế nào?
Ba Tuần: Tôi nói: “Phật th́ làm ǵ có kẻ thù.
Phật mà c̣n phân biệt kẻ oán người thân th́
đâu có phải là Phật”. Chừng ông ta đă
được nghe đâu cái câu ấy của Ngài một
vài lần rồi cho nên khi nghe tôi nói khích ông ta động
ḷng tự ái, cho tôi vào ngay.
Đức Phật: Cái kiểu của ngài th́ muôn
đời như vậy. Và cứ phải mưu mô mà
đi đường cong như vậy th́ mới thắng
được thiên hạ. Nhưng mà thực ra có dám làm
như thế mới được gọi là Ma
Vương.
Ba Tuần: Đúng lắm thưa Ngài. Làm Ma
Vương bực lắm. Mặc áo th́ luôn luôn phải
mặc áo giấy. Vẻ mặt th́ khi nào cũng phải
hoặc nham hiểm, hoặc độc ác hoặc u mê.
Thở th́ phải thở toàn khói nghi ngờ đen
nghịt. Để có h́nh thức phù hợp. Để cho
danh chánh ngôn thuân là Ma Vương mà. Đi đâu thiên hạ
cũng tránh, cũng ghét, cũng sợ. Làm Ma Vương
quả thực bực lắm.
Đức Phật: Vậy ngài tưởng làm
Phật sung sướng lắm hay sao? Thiên hạ dán vào
lưng tôi nhiều nhăn hiệu mà tôi không hề tự
xưng bao giờ. Thiên hạ đem tôi ra bán buôn. Và cứ
tưởng tượng ngồi trên xe hoa để thiên
hạ rước đi từng bước gật gù qua
các phố bán than, bán thực phẩm, bán nước
mắm v.v… th́ tôi tưởng Ngài sẽ chẳng bao giờ
ước muốn làm Phật, Thế Tôn của nhân
loại.
Nghe đức Thế Tôn nói xong, Ba Tuần
cười ha hả…”
Nguyên
Hưng ơi, tôi chỉ chép Nguyên Hưng đọc
từng đó mà thôi nghe.
Không
phải tôi sợ rằng Nguyên Hưng nh́n tôi bằng
cặp mắt thương hại hay trách móc đâu. Tôi
đă nói với Nguyên Hưng rằng tôi viết lá thư
đó trong tâm niệm an lành và thương yêu rồi mà. Mai
sau nếu chúng ta được trở về Phương
Bối th́ bản thảo cuốn kinh kia sẽ
được để trên bàn giữa của chiếc
nhà Thượng. Và sẽ chỉ có những người có
căn cơ đại thừa của đại
thừa mới được đọc cuốn kinh
đại thừa của đại thừa ấy có
phải không?…
V
Mấy
hôm này trời khá lạnh. Ngày mốt tôi đă phải
rời bỏ nơi đây rồi. Tôi sẽ ghé Princeton
thăm và ở lại đây vài hôm trước khi về
Nữu Ước. Những ngày sống nơi đây
thật là an tĩnh và mạnh khỏe. Tôi đă chơi
rừng, đă chèo thuyền, đă bơi lội với
bọn trẻ. Tôi làm tất cả những công việc
bọn trẻ làm: đi quan sát các hiện tượng thiên
nhiên, tập làm thủ công, chơi bóng bàn, bóng chuyền,
chạy đua, đóng kịch, hát, chơi tṛ chơi
lớn… Bọn trẻ thích nhất nói chuyện với tôi
và ưa đi theo về Pomona trong những giờ
tự do. Tôi đă nói chuyện nhiều lần cho từng
nhóm ba bốn chục người. Tối hôm qua
người ta làm lễ bế mạc trại theo h́nh
thức của người thổ dân bản xứ.
Họ mời tôi tới dự: và bởi v́ là khách “quư” tôi
được trao tặng lông chim xanh danh dự. Có
những màn khiêu vũ kiểu thổ dân rất ngoạn
mục. Buổi lễ được tổ chức trong
một khu rừng âm u vào lúc mười giờ đêm.
Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe.
Từ
những khu trại khác nhau. Lúc chín giờ rưỡi
đêm, các trại sinh từ bé tới lớn sắp hàng
đi lặng lẽ về địa điểm làm
lễ. Có những con đường ṃn khác nhau dẫn
tới khu rừng đă được chọn làm
địa điểm ấy, và từng đoàn
người trong bóng đêm đi im lặng như những
bóng ma. Không ai được đốt đuốc cả.
Người đi đầu mỗi đoàn đă phải
học thuộc đường rồi và như thế
cả đoàn cứ việc đi theo anh ta không sợ
vấp, vướng hay đâm nhào vào bụi. Có trên năm
trăm trại sinh trong toàn trại, và im lặng
được tuyệt đối tôn trọng. Tôi thấy
họ dạy dỗ trẻ con tài quá. Mỗi đoàn, khi
tới địa điểm, im lặng t́m đến
chỗ ngồi của ḿnh. Nơi làm lễ là một
khoảng đất trống. Dưới ánh sao,
người ta chỉ trông thấy lờ mờ một
đống củi. Tất cả đều lặng
lẽ chờ.
Đúng
mười giờ. Từ một góc rừng vọt ra
một âm thanh lạ kỳ, một âm thanh có tính nguyên
thỉ và man rợ. Tiếp theo là tiếng trống báo
hiệu người tù trưởng đến. Một lúc
sau xuất hiện ba bóng đen trước đống
củi lớn. Một bóng đưa tay làm phép trên
đống củi và đọc một đoạn cầu
nguyện cho lửa thiêng trở về. Giọng hắn
nghe mọi rợ và ghê rợn. Người ta chờ đợi.
Vài phút sau có tiếng rẹt rẹt trong đống
củi, và một tia lửa xanh xẹt lên. Đống
củi bừng cháy.
Lửa
càng lúc càng sáng và soi rơ h́nh dáng ba người thổ dân,
cố nhiên là do trại sinh trá h́nh. Tất cả
đều đóng khố. Thân h́nh đen thui đen
thủi, v́ đă được bôi thuốc. Mặt mày
cũng thế. Lại có thêm nét rạch. Đầu
đội lông chim. Tên đứng giữa ra lệnh khai
mạc buổi lễ. Những màn múa bắt đầu.
Trại sinh đă tập luyện rất kỹ
lưỡng. Người nào người ấy đều
phục sức như thổ dân, và những màn múa cố
gắng diễn tả nếp sống tôn giáo tín
ngưỡng của các bộ lạc. Tất cả
trại sinh dự kiến đều im lặng. Không ai xuưt
xoa một tiếng nào, và màn vũ đặc sắc cách
mấy cũng không được vỗ tay. Tôi ưa
nhất là cảnh đánh nhau bằng đuốc.
Để cướp một người đàn bà, hai thanh
niên đă phải đấu đuốc với nhau. Họ
cầm những cây đuốc sáng rực và tấn công nhau
một cách mănh liệt. Tất cả mọi người
đều hồi hộp cho đến khi cuộc
đầu kết thúc và một trong hai người
được phép chiếm hữu người đàn bà.
Tiếp
đến là lễ tặng lông chim xanh danh dự cho
những người có công trong “vương quốc”
Ockanickon, nghĩa là cho những trại sinh xuất sắc
của trại hè. Khi tù trưởng gọi đến tên
một người nào được tặng lông chim danh
dự, th́ từ bốn phía rừng Đông rồi Tây
rồi Nam rồi Bắc, vọng lên tiếng tên họ
của người ấy kèm theo tiếng mơ ngắn.
Tiếng vọng có vẻ huyền bí như tiếng
của các thần linh đang đứng ở bốn phía
để chứng kiến buổi lễ.
Tôi
không thể nhớ đến những người bạn
Thượng của chúng ta ở B’su Danglu, những
người bạn Thượng thường hay đi qua
Phương Bối để hái rau rịa. Rau
rịa là một thứ rau rừng ăn rất ngon;
người thượng nào cũng ưa thích. Thứ cây
này có rất nhiều ở Phương Bối, nhất là
trong khu rừng ở phía Tây Nam. Ta chỉ có thể hái
được những đọt lá non mầu hồng
tím. Lá rịa mọc song đôi trên đọt cho nên Lư
đặt tên thứ rau này là song diệp thái. Người
Thượng có thể bán cho người kinh bất cứ
thứ ǵ họ kiếm được ở rừng: tre,
mây, phong lan, thịt nai, măng, v.v… nhưng không bao giờ
bán lại rau rịa. Họ nói không ăn rau rịa
th́ hai chân sẽ nhức mỏi; đi rừng nhắc chân
không nổi. Tôi chắc thứ rau ấy có được
tính trừ được tê thấp, hay ǵ đó. Bác
Đại Hà nói những người mất ngủ
nếu ăn rau rịa th́ sẽ ngủ được.
Chúng ta ai cũng thấy điều đó là đúng, và lâu
lâu lại đi vào rừng đi hái thứ rau quư giá đó
về để cho d́ Tâm Huệ nấu canh. Những
người bạn Thượng không nấu canh rau rịa
theo kiểu d́ Tâm Huệ. Họ đem rau rịa giă nát ra,
rồi trộn với ít muối. Xong họ đổ thêm
nước và đun sôi lên. Thế là họ có món ăn mà
họ ưa thích nhất. Có một bữa Phượng
từ Saigon lên ở lại, không nhận mặt
được rau rịa cho nên hái nhầm những
đọt lá không phải là rau rịa. Ăn món canh rau
rịa chiều hôm ấy ai cũng thấy say say. Và chúng ta
lại có dịp chế riễu cái cô botaniste hiền
hậu đó.
Thỉnh
thoảng gặp những người Thượng đi
ngang Phương Bối, chúng ta hay ra mời mọc họ
vào chơi uống nước. Những người
thượng như thế ít nhiều cũng nói
được tiếng Kinh. C̣n tiếng Thượng th́
chúng ta chỉ biết một vài câu xă giao mà thôi. Bác
Đại Hà nói tiếng Thượng thật giỏi,
nhưng không có dịp dạy chúng ta. Tôi đă kiếm
được một tập tự điển Thượng
Kinh Kinh Thượng in bằng ronéo, nhưng cũng
chưa có dịp thuận lợi để học. Tập
tự điển ấy, tôi nhớ c̣n để ở
hộc tủ bên trái trong thư viện, Nguyên Hưng.
Trong
chúng ta, ai cũng có nhiều cảm t́nh với người
Thượng. Họ chất phát và thực thà, cho nên
nhiều khi bị lợi dụng. Nhưng, càng bị
lợi dụng họ lại càng khôn hơn lên, và bây
giờ đây đă có những người Thượng mà
tôi tưởng không ai c̣n có thể lợi dụng
được nữa.
Người
thượng có sức chịu đựng rất dẻo
dai. Thân thể họ có nhiều năng lực kháng
độc hơn chúng ta, và những điều chúng ta làm
gọi là để mà “giữ vệ sinh” ấy,
người Thượng không hề làm, hoặc không
cần làm. Họ ít khi ốm đau vặt, và nếu
bị ốm th́ là bị ốm nặng mà thôi. Mà một khi
đă ốm nặng là khó ḷng qua khỏi. Có lần tôi
gặp một gia đ́nh người Thượng cơng
một người ốm đi ngang Phương Bối.
Người này đă già, và chân tay gầy tong teo như
những cây sậy. Hỏi ra th́ người này ốm già,
chứ không phải là ốm bệnh. Ông ta sắp chết,
không phải v́ tật bệnh ǵ, mà chỉ v́ già. Biết
rằng ông ta sắp chết cho nên gia đ́nh ông ta cơng về
nơi mà ông ta sẽ nằm chết để chết.
Có
một lần khác tôi trông thấy một người
đàn bà Thượng tắm cho con trong một ḍng
suối. Tôi rùng ḿnh. Đứa bé chỉ vào khoảng hai
tuổi, tôi phải mặc áo ấm, thế mà đứa
bé chịu đựng được, không hề kêu khóc.
Tôi biết là đứa bé nào ở thành phố mà cho về
tắm dưới suối kia theo kiểu người
đàn bà Thượng th́ cũng ít nhất là bị sưng
phổi. Da thịt của hai mẹ con h́nh như bằng
đồng th́ phải. D́ Tâm Huệ c̣n nói rằng
người Thượng c̣n tắm nước mát lạnh
cho cả những đứa bé sơ sinh nữa.
Người ta nhúng những đứa bé xuống
nước vài lần. Những đứa nào chịu
được th́ sẽ sống mạnh khỏe. Những
đứa nào không chịu được th́ sẽ
chết. Không biết điều này có thực không. Nếu
thực th́ ta có thể có thêm một lư do để hiểu
tại sao dân số Thượng hầu như không tăng
không giảm.
Nguyên
Hưng có nhớ một buổi chiều cùng với bác
Đại Hà trồng bạch mai trước sân, chúng ta
đón một đoàn người Thượng đi ngang
Phương Bối hay không? họ mang
cung tên, trong đó có những mũi tên tẩm thuốc
độc. Chúng ta đă ngừng tay và nói chuyện với
họ, qua tài nói tiếng Thượng của bác
Đại Hà. Lần đầu tiên tôi được mân
mê trong tay những mũi tên có tẩm thuốc độc.
Bác Đại Hà cắt nghĩa về cái chất vàng vàng
ở đầu mũi tên đó. Để chứng
kiến tài nghệ của những người
Thượng, Lư yêu cầu họ bắn một mũi tên
lên cành cây cong ở khu rừng trước mặt. Bác
Đại Hà thông ngôn xong, họ nhận lời ngay một
người trong đoàn lấy ra một mũi tên - không có
thuốc độc - và lắp vào cung. Tiếng giật
của giây cung và tiếng mũi tên xé gió đi tới làm
cho tôi có cảm nghỉ rằng mũi tên thế nào cũng
đi lạc. Nhưng không, sau một âm thanh khô cứng và
bén nhọn, tất cả chúng ta đều reo mừng khi
thấy mũi tên đă cắm trên cành cây cong, thân tên
vẫn c̣n rung rung.
Đối
với chúng ta, đoàn người Thượng hôm ấy
là một đoàn người Thượng có phong thái
hơn cả, và có tính cách Thượng hơn cả.
Một đoàn người như thế th́ đi bất
cứ khu rừng nào cũng không c̣n phải sợ hăi ǵ
nữa. Chắc lúc ấy Triều Quang đang tưởng
tượng trong óc những lúc đoàn người này
gặp cọp giữa rừng và h́nh dung ra những
trận ác chiến ghê gớm giữa người và
cọp. Quang hỏi: “Khi gặp cọp trong rừng các ông
làm ǵ?” và đợi nghe những bí thuật, những
chiến lược đặc biệt của
người Thượng để đối phó với
cọp. Bác Đại Hà vừa thông ngôn xong th́ câu trả
lời bằng tiếng Thượng của người vừa
bắn mũi tên trổ tài cũng tới ngay, và rất
ngắn. Bác Đại Hà dịch lại: “Khi gặp
cọp th́ chúng tôi… chạy.” Tất cả chúng ta
đều rũ ra cười, phá lên cười, ôm
bụng mà cười v́ không có ai chờ đợi một
câu trả lời như thế, có lẽ trừ bác
Đại Hà, người thông hiểu về đời
sống của người Thượng hơn hết.
Những người khách Thượng ngơ ngác không
biết chúng tôi cười v́ duyên cớ nào. Họ đă
trả lời một cách giản dị và thành thực.
Điều đó không có ǵ đáng cho là khó hiểu hay
buồn cười cả. Họ không ngờ chúng tôi
cười chỉ v́ đă tưởng tượng
nhiều quá trong óc chúng tôi về những trận ác
chiến với cọp.
Bác
Đại Hà cắt nghĩa: “Cọp ở miền này không
có ư hại người, không hay giết người ăn
thịt. V́ hươu nai và các thú rừng rất nhiều,
rừng không nghèo như ở miền rừng Quảng B́nh,
Quảng Trị. Cọp chỉ xông vào vồ người
hoặc kịch chiến với người khi nào cọp
bị dồn vào một thế bí. V́ vậy gặp cọp
trong rừng th́ chỉ cần tránh ra khỏi con
đường cọp đi, thế là yên. Chạy có
nghĩa là tránh đừng gặp mặt cọp trên
đường cọp đi”.
Tuệ
cười đến chảy nước mắt, phải
lấy khăn lau. May là chúng tôi gặp những
người Thượng chất phát cho nên chúng tôi mới
có thể cười thẳng thắng như vậy mà
không sao, chứ gặp những người dưới
phố mà cười như thế th́ chắc là phải có
gây gổ với nhau rồi. Muốn tránh sự gây gổ
th́ phải bóp bụng lại, đừng cười. Mà
làm sao có thể nín cười trong một trường
hợp như thế, hả Nguyên Hưng.
Có
một hôm, anh Phương con d́ Tâm Huệ một ḿnh
với chiếc xe đạp cũ leo theo con
đường ṃn để vào Phương Bối. Qua
rừng Tham Thiền chưa được mười
thước, anh thấy một
Nguyên
Hưng ơi cũng là may ở B’su Danglu cọp không
ăn thịt người nên mấy lần gặp cọp
chúng ta cũng chẳng bị hề hấn chi. Ngày xưa
có người đành ḷng lên ở chỗ nhiều thú
dữ để dù rằng có bị thú dữ ăn thịt
đi nữa th́ cũng không đau khổ bằng sống
dưới một sự cai trị hà khắc nhiều
khốn đốn. Phương Bối tuy rằng không
phải là một nơi đầy thú dữ, một
nơi sơn lam chướng khí độc địa -
trái lại; là một nơi rất đẹp, rất yên
tĩnh, rất kỳ thú - nhưng c̣n chúng ta, cái ǵ đă
khiến chúng ta bỏ thành thị bỏ xóm làng mà lên
đây? chúng ta nhất là Lư và tôi, không
được chế độ chấp nhận. Mà không được
chế độ chấp nhận là bởi v́ chúng tôi thao
thức muốn nói những điều mà chúng tôi cho là
sự thực. Nguyên Hưng ơi, tôi thấy rằng cái Chân
hoặc cái Thiện bao giờ cũng phải
đi với cái Cường nữa th́ mới có
thể có chỗ đứng trên trái đất này. Ngày
xưa học thơ ngụ ngôn của
Và
tất cả chúng ta, nào Mẫn, nào Hiện, nào
Hương, nào Tuệ, nào Hưng, và bao nhiêu người
khác nữa cũng không t́m được chỗ
đứng của chúng ta trong tổ chức Phật giáo.
Chúng ta đă mang tiếng là những người gieo
rắc tư tưởng phản giáo lư truyền thống,
những người quá khích, những người chỉ
biết phá hoại. Chế độ không dung
được ta mà truyền thống cũng không dung
được ta. Cổ họng chúng ta bé bỏng. Nói
chuyện thống nhất Phật giáo, nói chuyện
hiện đại hóa lễ nhạc, giáo dục, hoằng
pháp, nói chuyện về một nền Phật giáo nhân
bản và dân tộc, những điều ấy chúng ta
đă đeo đuổi từ gần tám năm nay.
Những hạt giống đă gieo, một cách vô cùng khó
khăn. Trong khi chờ đợi, chúng ta gặp toàn
những giông tố, những ghen ghét, những thành tŕ
cố chấp hủ bại, tuy nhiên chúng ta không nản chí,
không thất vọng. Một số hạt giống đă
lưa thưa mọc lên. Cùng với sự bất măn
chế độ, ư thức về một nền Phật
giáo dân tộc dần dần tượng h́nh. Nguyên Hưng
không ngờ được rằng ảnh hưởng
của những tư tưởng kia đă sâu đậm
như thế nào ở miền Trung. Một buổi
chiều đi với Như Huệ và Như Vạn trong
một xóm nghèo ở Quảng Nam, tôi nghe tiếng vơng
kẽo kẹt ḥa theo tiếng ru em, những câu ca dao
của Tâm Kiên! Tôi muốn chảy nước mắt.
Có
lẽ là chúng ta không nên ngạc nhiên quá, và không nên đ̣i
hỏi quá. Sự vùng dậy để thoát xác của
một nền văn hóa không phải là một cái ǵ có
thể thực hiện một cách dễ dàng và êm
đềm. Sự dễ dàng và êm đềm đó chi có
thể đi đôi với tinh thần nô dịch. Mà đă
là nô dịch th́ văn hóa không c̣n là văn hóa nữa, mà
chỉ c̣n là một dụng cụ. Những mâu thuẫn và
khổ đau gây nên do sự va chạm giữa cái cũ và
cái mới vốn là những ǵ không tránh được.
Chỉ có một con đường phải đi - con
đường của sự tranh đấu bền
bỉ và gian khổ.
Nguyên
Hưng ơi, v́ nghĩ như thế nên chúng ta đă làm
việc tích cực trong thời gian ở Phương
Bối. Tuy rằng chúng ta có những buổi thám hiểm
núi rừng, những ngày cắm trại, những buổi
b́nh văn, và tuy rằng tất cả những sinh hoạt
ấy đều rất thú vị, chúng ta cũng đă
để rất nhiều th́ giờ vào việc học
tập, tra cứu, viết lách. Lư thường thức
rất khuya trên đống bản thảo. C̣n tôi tuy
sức khỏe không cho thức khuya, tôi cũng làm thật
nhiều việc. Ngoài sự sưu tầm, viết lách tôi
đă khởi thảo bộ Phật Học Từ
Điển. Công việc này dỡ dang; trước khi
đi, tôi đă giao lại cho một số các bạn
trẻ ở Phật học viện Nha Trang tiếp
tục. Tôi rất sung sướng nghĩ đến
những buổi học nơi nhà Thượng hay ở
thư viện. Nguyên Hưng và Thanh Tuệ đă làm việc
rất siêng năng. Ngoài những môn học thường
nhật, thỉnh thoảng tôi ưa giảng cho Hưng và
Tuệ về những đề tại đặc
biệt. Tôi chắc Nguyên Hưng c̣n nhớ hôm tôi đem
giảng những đoạn trong Cựu Ước.
Những cuộc hội thảo xảy ra luôn luôn, một
cách tự nhiên và Lư có vẻ hùng biện hơn ai hết.
Nói thế chứ nhiều khi tôi cũng hay “bắt nạt”
Lư lắm, phải không Nguyên Hưng? Thầy Thanh Từ th́
ít nói, hay cười hiền lành. Tuy vậy thỉnh
thoảng chúng tôi cũng bắt thầy điều
khiển những buổi hội thảo. Tôi nhớ chó
một lần thầy hướng dẫn hội thảo
về thiền. Lần này có một nhóm sinh viên Phật
tử ở Saigon lên thăm và tham dự.
Triều
Quang ít nói trong các buổi hội thảo, nhưng hễ nói
th́ nói những điều có thể gây nên những “vấn
đề lớn”. Quang rất say mê làm việc ngoài
rừng. Cậu ta dọn một khoảng thật
đẹp ở khu rừng trước mặt, sửa
sang cho thật xinh, và gọi đó là nội cỏ thiên
đường. Quang rất thích nuôi một con ḅ, ư
định ấy được vài người trong chúng
ta tán thành. Tuệ cười nói: “vậy th́ sẽ có
sữa nóng uống buổi sáng”. C̣n tôi th́ ngại
Một
hôm Quang trông thấy những người Thượng
đi ngang, mang theo một con nai nhỏ. Con nai bị trói
lại trông rất đáng thương. Quang nhất
định mua con nai ấy để nuôi trong nội
cỏ thiên đường. Lần này không ai ngăn
cản Quang cả. Nhưng con vật, tuy được
cởi trói và đối đăi thật tử tế,
vẫn không chịu ăn bất cứ một thứ ǵ.
Ba bốn hôm liền như vậy. Đến hôm thứ
tư, Quang thử cho uống sữa. Con vật thích
lắm. Nó uống sữa xong, đi chơi quanh quẩn
trong nội cỏ. Nhưng đến sáng mai, không ai
t́m thấy nó nữa. Nó đă trở lại núi rừng.
Viết
cho Nguyên Hưng đến đây tôi lại nhớ
đến Datino, con nai nhỏ bé của bọn Cherrokeesi,
Datino lớn như thổi. Đứa trẻ nào
cũng ao ước được mang Datino về
nhà. Tôi đă đề nghị trả Datino về rừng.
Một số các em tỏ vẻ luyến tiếc, nhưng
phần lớn đều tán thành.
Nguyên
Hưng ơi, mùa hè năm ấy, bao nhiêu việc buồn
đă xảy đến cho chúng ta. Chị Diệu Âm ốm
nặng phải chở lên điều trị tại
bệnh viện của bác sĩ Sohier. Lư bị bắt. Tôi
phải trốn về Saigon. Phương Bối bị
đe dọa. Tuệ Hưng và tất cả những
người ở Phương Bối bị bắt
buộc phải rời bỏ Phương Bối để
vào trong ấp Chiến Lược. Công an nghi rằng chúng
ta đang làm ǵ ở miền núi rừng nên cứ
đến Phương Bối để hỏi thăm, ḍ
la. Những người công an này lộ liễu lắm
bởi v́ trông tướng mạo họ và nghe một vài
câu hỏi của họ, ta đă có thể biết ngay
rằng họ là công an rồi. Đột nhiên chúng ta
mất hết những an tĩnh của chúng ta.
Phương Bối bị đe dọa trầm trọng.
Chúng ta chứng kiến cảnh thiên đường
bị mất dần dần.
Tôi
tin rằng không ai trong chúng ta mà không nhớ rơ từng chi
tiết của giai đoạn khó khăn ấy. Ba ngày hôm
sau Như Hiền báo tin bệnh chị Diệu Âm đă
được thuyên giảm trong khi điều trị
ở bệnh viện Sohier, chúng ta nhận được
tin cấp báo ở Dalat cho biết rằng bệnh t́nh
chị trở lại trầm trọng hơn bao giờ
hết. Hoảng kinh, Nguyên Hưng và tôi vượt rừng
t́m về xa lộ, đón xe ngược Dalat. Từ
mười giờ sáng đến bốn giờ chiều
chúng ta không đón được một chiếc xe nào
cả. Xe đ̣ chiếc nào cũng đầy ăm ắp.
Chúng ta đưa tay lên đón theo kiểu auto-stop bất
cứ một chiếc xe nào. Chúng ta quên đói, quên mệt,
mà chỉ lo lắng. Bốn giờ hơn, may mắn chúng
ta đón được xe của một người quen.
Xe của Nghĩa. Mừng quá, chúng ta hối thúc Nghĩa
chạy thật nhanh. Con đường như dài vô
tận. Đến Dalat, Nghĩa đưa chúng ta
đến thẳng bệnh viện Sohier. Chị Âm đă
tĩnh rồi, và cơn nguy hiểm đă qua rồi.
Chị cười yếu ớt. Mắt chị sáng lên khi
trông thấy chúng ta.
Chắc
Nguyên Hưng cũng nhớ rằng, sau thời gian
điều trị ở Dalat, chị đă được
chúng ta mang về Saigon, điều trị ở Grall, và
sau đó về Huế. Bởi v́ Dalat rét quá, không thích
hợp với bệnh của chị. Chị đă lấy
lại được sức khỏe trong thời gian ba
tháng. Khi tôi ra đi, chị có vẻ tin tưởng và hy
vọng. Tôi ngồi bên giường chị, ở Thiên
minh, và nói chuyện vói chị về những dự tính
cho công việc sau này. Chị hơi mệt, nhưng nụ
cười của chị rất tươi. Tôi nói tôi
chỉ vắng mặt chín tháng thôi, rồi tôi lại trở
về. Mà khi tôi về th́ t́nh h́nh sẽ sáng sủa hơn,
chúng ta sẽ làm được nhiều việc hơn.
Chị chăm chú nghe tôi nói và sẵn sàng tin nơi những
điều tôi nói. Tôi có cảm tưởng rằng trong khi
nói chuyện với chị, tôi tưới được
thêm những chất liệu của niềm tin trên tâm
hồn chị. Tội nghiệp cho chị. Chị mất
sau đó không lâu, nghĩa là khoảng ba tháng sau. Lúc ấy
tôi ở Princeton. Điện tín do Hoàng Phong ở Huế
gửi sang. Tôi bàng hoàng và lặng người đi.
Bởi v́ tôi đă tin rằng chị có thể qua khỏi.
Tôi
ghi chầm chậm trên tập bản thảo của tôi
mấy chữ đơn sơ: thương tiếc
chị. Rồi tôi quỳ xuống cầu nguyện cho
chị. Giờ chị ra đi chắc chị nghĩ
đến chúng ta đến
Năm
tháng sau th́ Lư cũng được chở vào điều
trị ở bệnh viện Cơ Đốc Phú Nhận.
Chứng bệnh nhức đầu ghê gớm của Lư
ngày xưa đă trở lại. Lư là một người có nghị
lực, thế mà khi đau quá, Lư phải hét như một
người điên và nước mắt của Lư chảy
ràn rụa. Nếu Lư không bị bắt th́ chắc chứng
bệnh cũ không đến nỗi trở lại như
thế đâu. Một hôm có người khách quen, thầy
Đức Nhuận, từ Saigon lên thăm Phương
Bối, Lư và Nguyên Hưng sau khi đưa khách vượt
rừng ra xa lộ đă vui chân đi bảy cây số
đường bộ về tới Bảo Lộc. Hai
người đang đi mua ít vật dụng trong chợ,
th́ người công an tới đưa giấy tờ cho Lư
xem và mời Lư về ty. Thế là Nguyên Hưng cũng
phải đi theo Lư về ty công an. Nguyên Hưng nhất
định không ra về nếu Lư không về. Họ
bảo Lư khai, Lư đ̣i giấy bút. Thế là Lư ngồi
viết cho đến chiều. Viết cho đến chiều
hết giấy, Lư xin thêm giấy nữa. Họ đưa
Lư và Hưng về chùa Bảo Lộc. Rồi sáng mai, họ
trở lại mời Lư vào ty. Có lẽ để viết
thêm.
Lúc
ấy đang loay hoay với mấy cái danh từ Phật
học, tôi thấy Nguyên Hưng về. Sau khi kể lại
mọi chuyện, Nguyên Hưng đưa cho tôi mảnh
giấy của Lưviết: nếu tôi không về nữa
th́ thầy sẽ viết cho hết cuốn sách giùm tôi.
Tôi cảm động quá. Mọi người ở
Phương Bối ai cũng bảo tôi nên đi Saigon
để tránh. Tôi có làm ǵ mà phải đi tránh. Có lẽ
chúng tôi bị họ để ư chăng. Hoặc giả
họ ghét và muốn trả thù v́ chúng tôi đă viết lách
chống báng họ chăng. Cái thời đại này,
hễ ghét ai th́ cứ gán cho họ tội làm “Việt
cộng” dù họ là người quốc gia. Ở đây
thấp cổ bé miệng làm sao nói được cho ai
nghe. Nghĩ như thế tôi liền thu xếp về Saigon
xem ra có thể giúp ǵ được cho Lư. Tôi dặn
Tuệ nếu tối nay chúng không thả Lư th́ đánh
điện cho tôi biết. C̣n nếu chúng thả Lư th́
cũng đánh điện cho tôi biết.
Đợi
măi cho đến trưa hôm sau nữa điện tín
mới về. Nội dung bức điện như sau: “Xin
cho biết bệnh t́nh chị Diệu Âm có thuyên giảm
không”. Tôi mừng rỡ v́ có nghĩa là chúng đă buông Lư. Mà
tôi đă dặn nếu Lư được ra th́ phải cho
Lư về Saigon ngay.
Lư
về Saigon được ít lâu th́ chứng nhức
đầu tái phát. Hồi ấy, Nguyên Hưng đă ở
Huế rồi. Tôi phải đưa Lư vào bệnh viện
và phú thác cho Phượng chăm lo cho Lư. Cũng may mà Lư b́nh
phục sau đó gần một tháng trời. Hôm tôi ra
đi, Lư rất băn khoăn. Chính Lư cũng như
mọi người đă khuyên tôi nên đi. Ở nhà
cũng không làm được ǵ, Lư và cả Nguyên Hưng
cũng nói như vậy. Lư có mua cho tôi một cuốn sách.
Măi đến khi sang bên này tôi mới mở ra xem. Trang
cuối có hai gịng chữ của Lư:
“Nếu ngày về thấy khung trời đổ
nát
th́ t́m em nơi tận đáy ḷng
anh”.
Khi
tôi phát giác ra hai câu ấy, tôi giật ḿnh và lo sợ. T́nh
thế càng lúc càng căng thẳng. Chế độ đă
tàn bạo nên bao nhiêu bất măn và oán thù. Phương
Bối đă coi như vượt khỏi tầm tay
của chúng ta rồi. Lư đă tiên đoán một cuộc
đổ vỡ ghê gớm. Tôi rùng ḿnh, nghĩ đến
ngày về, và tôi cầu nguyện cho những người
thân yêu, cầu nguyện cho tất cả chúng ta.
Tuệ
đă lại đi dạy học lại và chỉ về
Phương Bối vài lần trong một tuần. Ấp
chiến lược được thiết lập bên xa lộ.
Ban đầu thầy Thanh Từ, Tuệ và d́ Tâm Huệ c̣n
nán ở lại, nhưng sau đó ít lâu, mỗi
người cũng phải tản mát một nẻo.
Thầy Thanh Từ cũng đă về Phú Lâm lâu rồi.
Thanh Tuệ và d́ Tâm Huệ cũng phải tạm trú ở
Đại Hà thỉnh thoảng mới vào thăm
Phương Bối. Tội nghiệp cho Thiền Duyệt
Thất. Tội nghiệp cho nhà Thượng. Tội
nghiệp cho từng lá cây ngọn cỏ.
Tôi
nhớ trước ngày đi, tôi có lên Phương Bối
thăm một cách đột ngột. Tôi ngủ lại
một đêm. Buổi sáng hôm ấy trời đầy
sương lạnh lẽo. Tôi giă từ thầy Thanh
Từ, giă từ Phương Bối, giă từ những
cuốn sách của tôi, tôi để lại cho thầy Thanh
Từ một bài ngũ ngôn, như một bài chúc tụng
như sau:
“Gối
nhẹ mây đầu núi
Nghe
gió thoảng hương trà
Thiền
duyệt tâm bất động
Rừng
cây dâng hương hoa
Một
sáng ta thức dậy
Sương
lam phủ mái nhà
Hồn
nhiên cười tiễn biệt
Chim
chóc vang lời ca
Đời
đi về muôn lối
Quan
san rộng hăi hà
Chút
lửa hồng bếp cũ
Ấm
áp bóng chiều sa
Đời
vô thường vô ngă
Người
khẩu Phật tâm xà
Niềm
tin c̣n gửi gắm
Ta
vui ḷng đi xa
Thế
sự như đại mộng
Quên
tuế nguyệt ta đà
Tan
biến ḍng sinh tử
Duy
c̣n Ngươi với Ta.
Thầy
Thanh Từ xem xong rất cảm động. Tôi nói: “Tôi
đi rồi lại về”. Và ở bên này có rất nh́êu
khi tôi nhớ thầy, một hôm đọc Ngữ lục
tôi thấy có câu:
Trương
kiến kha kha tiếu
Viên
lâm lạc diệp đa.
Và
bất giác nhớ h́nh ảnh Phương Bối quá. Tôi
dịch hai câu ấy ra như sau:
“Gặp nhau cười ha hả
Lá rụng ngập vườn rừng”
Có
phải là khi nào đi từ cầu Mai đến
đồi Thượng mà gặp nhau, chúng ta cũng
thấy như thế phải không Nguyên Hưng?
Nhưng
hết rồi, hết rồi, Phương Bối đă
lọt ra khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Tội
nghiệp cho từng gốc cây, từng bụi cỏ,
từng lối ṃn. Một người hiền ḥa như
thầy Thanh Từ mà cũng không được ngồi
yên để tọa thiền trong ḷng Phương Bối
nữa! Chúng ta c̣n lại ǵ cho ngày mai? Mỗi người
một ngả. Phương Bối đă tủi thân
đến mức độ nào? Chiếc nhà Thượng
có đứng vững được trước gió
mưa cho đến khi chúng ta trở về hay không?
Nhưng
mà Nguyên Hưng, không biết sao tôi cứ tin rằng chúng ta
không bao giờ mất Phương Bối. Phương
Bối vẫn c̣n đó, vẫn chịu đựng
biệt ly cũng như tất cả chúng ta hiện
đang mỗi người một nẻo, cũng chịu
biệt ly. Phương Bối đă trở nên thực
tại trong ḷng người. Phương Bối đă
chiếm chỗ linh thiêng trong ḷng chúng ta. Ở bất
cứ phương trời nào, nghe đến Phương
Bối là ta cảm động. Bữa trước
viết cho Mẫn tôi nói: “dù cho phong ba băo táp có đánh
bạt chúng ta mỗi người một ngă th́ niềm tin
vẫn đưa chúng ta về trả lại cho nhau”.
Nguyên
Hưng, Medford đă rét rồi. Bọn trẻ con đă
về hết. Rừng
VI
Hiện tôi đang ngồi ở
Brown Hall viết cho Nguyên Hưng, Đại học Princeton
hiện giờ vắng vẻ lắm: ngoại trừ
năm bảy người, tất cả đều đă
về nhà ăn tết và lễ Giáng sinh.
Ngoài trời tuyết đang rơi và Brown Hall
ngôi nhà cũ kỹ và thân yêu này của tôi đang ch́m trong
yên lặng tuyệt đối của một buổi
chiều cuối năm.
Tôi về đây ngày hôm kia, tức là hôm hai mươi mốt tháng
chạp. Suốt một mùa Thu và gần
hết mùa Đông tôi không viết tiếp được cho
Nguyên Hưng. Thực ra tôi không bận rộn ǵ lắm
để đến nỗi không có th́ giờ viết cho
em. Nhưng tôi không thể viết cho
Nguyên Hưng chỉ một vài câu thăm hỏi.
Ngồi viết cho Nguyên Hưng, tôi cần phải có
một ít không gian và một ít thời gian, như
người sắp sửa đi chơi dă cầu vậy
mà. Tôi không muốn những công việc
vụn vặt tới làm gián đoạn câu chuyện
của chúng ta. Tôi có trước mặt đến ba
tuần lễ và cả
Bến xe
đông thật là đông. Thiên hạ như
kiến. Lấy vé xong tôi phải đứng nối đuôi
gần nửa giờ đồng hồ mới lên
được xe. Bên trong xe,
nhờ có máy phóng nhiệt nên ấm lắm. Thôi
giă từ thành phố rộn rịp.
Đây là lần thứ hai tôi
ngồi trên một chiếc xe bus về
Priceton. Xe phải đi gần hai giờ trên
xa lộ
Xe đỗ
ở Priceton. Tôi
bước xuống, hai tay xách hai cái
xắc đi trong mùa mưa tuyết để về Brown
Hall, nơi mà tôi đă ở trọn suốt một năm
ngoái. Campus buồn thật đẹp. Tuyết rơi phơi phới. Tuyết
rơi trên đầu, trên cổ, trên áo tôi. Mặc
đủ thứ áo, đội mũ, quàng khăn, mang
găng, thế mà tôi vẫn thấy rét. Campus
vắng teo. Tôi đến Brown Hall chẳng thấy ai,
ngoại trừ Jack. Tôi đi t́m Saphir, người bạn
Ấn Độ dễ thương của tôi, để
lấy ch́a khóa pḥng 115. Và tôi sung sướng cởi áo,
soạn những đồ vật tôi mang theo
trong hai cái xắc và bày biện trong pḥng. Tôi mở hết
máy phóng nhiệt, làm giường, và ra đứng
trước cửa sổ ngắm tuyết rơi trên
Campus. Được về
Chiều hôm
qua tôi đi chợ với Saphir trong chiếc Wolkswagen
nhỏ xíu và cũ kỹ của anh. Pḥng ăn
của trường đại học đóng cửa;
cả chiếc quán bán hàng cũng vậy. V́ vậy
những người ở lại trường phải ra ăn ngoài phố. Tuy vậy cái quán bán hàng
gần sát Campus center vẫn sẵn sàng để cho
những người ở lại nấu ăn. Tôi và Saphir
mua gạo, bắp cải, sữa và nhiều thức ăn khác. Buổi chiều chúng tôi nấu
cơm và ngồi ăn trong quán.
Trời rét ghê
lắm. Nguyên
Hưng. Hồi sáng không có tuyết rơi nhưng tôi
cũng không dám đi ra dạo chơi ngoài Campus. Bài phát thanh
WPRT dặn: Sáng nay lạnh 18 độ dưới không
độ, nếu không có việc ǵ cần kíp lắm th́
không nên đi ra ngoài. Cho nên từ sáng đến giờ tôi
cứ ở măi trong pḥng. Buổi trưa Saphir đem
đến cho tôi một ít thức ăn
khô và một b́nh sữa. Chiều nay có tuyết, chắc
rằng bớt lạnh. Thế nào tôi và Saphir cũng
tới Campus center để nấu vài món nóng ăn
cho ấm bụng. Campus center cũng gần
đây thôi, Nguyên Hưng. Xa Brown Hall chừng ba bốn
mươi thước.
Mùa Đông
sẽ c̣n kéo dài măi đến cuối tháng ba. Tuyết rơi
th́ đẹp thật nhưng ba bốn ngày sau lại trông
rất xấu xí. Bởi v́ tuyết
đă đóng cứng lại và trộn lẫn với
đất và bùn rồi. Nhưng một miền xơ
xác đầy rác rến và vũng bùn như các xóm nghèo
ở xứ ta mà sau một đêm tuyết rơi cũng sẽ
trở thành diễm lệ không cùng cho xem Nguyên Hưng
ạ. Nhưng mà thôi, quê hương ta tuy không có tuyết
nhưng cũng có những cảnh đẹp mà các xứ
như xứ nầy không có được: những thôn quê
có từng hàng dừa in bóng trên các ḍng sông, những thành
phố sáng chói hoa phượng vĩ… Mùa
Đông ở đây có khi quá dài quá thành thử ai cũng
trông ngóng cho nó đi qua để cho mùa xuân trở về.
Sau những đêm tuyết rơi nhiều quá, buổi sáng xe cộ không thể lưu thông
được. Xe xúc tuyết phải
được huy động gấp để dọn
đường. Trời rét quá khiến tuyết không
tan và phải đóng thành băng: những tai
nạn găy tay găy chân v́ trượt ngă trên những nẻo
đường trơn v́ băng không phải là hiếm.
Đi trên những con đường như thế c̣n khó
chịu và gặp nguy hiểm gấp mấy lần đi
ở các con đường vũng nước hoặc
lầy lội nữa, Nguyên Hưng. Những bữa
nhiều tuyết, tôi phải mang thêm một đôi ủng
cao su ra ngoài đôi giầy thường nhật nữa.
Bởi v́ nếu chân mà bị ướt sũng th́ thế
nào khi về nhà cũng bị cảm mạo. Ở bên này mà
ốm th́ thật là khổ, không có lấy một
người thân săn sóc. Vậy cho nên tôi phải giữ
ǵn cẩn thận lắm, Nguyên Hưng.
Ngoài mầu tuyết tươi
sáng, mùa Đông chỉ c̣n mang có một màu xám buồn
tẻ. Những thảm có xanh không c̣n nữa.
Cây cối trơ những cành gầy không lá ra
mà chịu đựng. Sức sống
của đất trời như bị bóp chẹt lại.
Nguyên Hưng, cái hồi cuối thu, khi lá
đă rụng hết rồi mà trời quả chưa có ǵ
là lạnh ấy, một hôm ngồi nh́n ra những hàng cây
trụi lá bỗng nhiên tôi thấy cảm thương dâng
ngập tâm hồn. Tôi thấy như là cây cối cũng
ngang hàng với những sinh vật có linh hồn, có
hiểu biết, có lo lắng, có chuẩn bị. Lá rụng
dần, rụng dần cho đến khi cành hoàn toàn trơ
trụi. Mới ngày nào đây tàn lá xanh của chúng làm tươi
cả một vùng và che lấp những dăy nhà phía sau chúng:
bây giờ chúng đứng trơ trụi và khổ hạnh
sẵn sàng chờ đợi và chịu đựng một
mùa Đông băng giá dài đặc sẽ đến.
Những chiếc cành xương xẩu của chúng in rơ
trên nền trời xám, nền trời mà trong suốt mùa
Hạ đă hoàn toàn bị che lấp sau tàn lá xanh. Một
mùa Đông băng giá sẽ tới và không thể dung tha
những ǵ non nớt, bé bỏng và phù hoa. Phải
vượt qua những giai đoạn c̣n non nớt bé
bỏng phù hoa đi để mà chịu đựng.
Phải già dặn, phải cô độc, phải sẵn
sàng nghiến răng mà chịu đựng. Nh́n những
hàng cây trụi lá đứng đợi chờ một cách
anh dũng và bền bỉ mùa Đông sẽ tới, tôi cảm
nhận được tất cả ư nghĩa của bài
học về sự chuẩn bị chịu đựng.
Nhớ lại hai câu thơ của Lư, tôi lại rùng ḿnh.
Đất nước chúng ta thế nào rồi cũng
phải trải qua một cơn bảo táp tàn khốc.
Chế độ đă gây nên quá nhiều bất công và áp
bức, đă sử dụng tiền bạc và bạo
lực để thực hiện những tham vọng
của ḿnh. Bất măn và căm thù càng lúc càng tăng và
hiện những phần tử v́ phẩn uất gia
nhập hàng ngủ Mặt trận giải phóng Miền Nam
để chống đối đă không phải là ít.
Chất liệu bất công, tàn ác và thối nát đă nuôi
dưỡng và làm cho lực lượng chống
đối càng lúc càng mạnh. Nay th́ chính phủ đă ban
bố t́nh trạng khẩn trương rồi. Chín năm
trời, Nguyên Hưng ơi, đă chín năm trời
rồi mà rốt cuộc chúng ta lai đi vào t́nh trạng
này. Một cơ hội tốt đă mất.
Sóng gió sẽ đến bất cứ vào lúc
nào. chúng ta không thể vô tâm vô tư
được. Phải bắt chước những hàng
cây kia, rụng hết tất cả
mọi lá phù hoa đi để sửa soạn chịu
đựng bảo táp, mưa gió, tuyết sương. Chúng
ta không thể nào c̣n bé bỏng và non nớt ǵ nữa. Chúng
ta phải già dặn, phải khổ hạnh, phải
vững chăi để mà vượt qua cơn thử thách
sắp đến.
Nguyên Hưng, trong những
tuần lễ theo sau ngày mà tôi học
được bài học của những hàng cây trụi lá
áy, ban đêm tôi thường có những ác mộng kỳ
lạ. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe vài giấc
mộng mà bây giờ nghĩ đến tôi c̣n rùng ḿnh. Hai giấc mộng mà tôi c̣n nhớ rơ.
Giấc mộng sau với giấc mộng trước
gần như là cách xa có một phút, trong cùng một
giấc ngủ.
Tối đó
tôi bị cảm, và v́ đă uống thuốc rồi mà không
bớt nên tôi nhờ Steve cạo gió cho tôi bằng Vicks,
thứ dầu cù là địa phương. Thật ra Steve chỉ biết
xoa thôi, nhưng tôi dạy cho chú ta dùng một cái th́a
để cạo gió theo kiểu Miền
Nam, cho đến khi nào lưng tôi đỏ lên mới thôi.
V́ có như thế tôi mới thấy ấm áp thật
sự và cảm giác ớn lạnh sau lưng mới tan
biến đi. Steve cho đó là một điều kỳ
quặc, bởi v́ bên này không ai chữa bệnh mà phải
làm cho da thịt bầm tím như thế bao giờ. Tuy
vậy Steve vẫn ch́u theo ư tôi. Ấm lưng rồi, tôi mới uống thêm
một viên Corricidin nữa, với nước nóng, và
đắp chăn lại, chai dầu cù là và b́nh
nước vẫn để đầu giường.
Đêm đó, trong giấc mộng thứ nhất, tôi
thấy một người em thân thuộc của tôi,
đứng ở gần cửa ra vào của một căn
pḥng rất rộng răi. Xa tôi đến
chừng mười mấy thước. Người
em đó là ai, quả thật tôi không biết rơ. Tôi chỉ
biết một cách rất mơ hồ rằng đó là
người tôi yêu mến nhất, c̣n thơ dại, c̣n
yếu đuối và cần phải bảo vệ. Bây giờ nếu ngồi kỹ lại để
xét từng người quen thuộc th́ tôi cũng không
thể đồng người trong giấc mộng ấy
với ai cả. Với Hưng chăng? Châu chăng? Phượng
chăng? Tuệ chăng? Toàn chăng? Có lẽ
đều không phải. Hoặc có lẽ là h́nh bóng
tổng hợp của tất cả, và nhiều nữa.
Trong lúc ấy, một người khổng lồ từ
ngoài cửa đi vào, một người dữ dằn cao
lớn, như một hung thần, như một con quái
vật; với hai bàn tay khổng lồ, kẻ đó
sắp túm lấy em tôi, túm lấy để tiêu diệt.
Khoảng cách giữa tôi và kẻ đó rộng quá, tôi không
thể chạy tới để can thiệp kịp lúc
được. Mà tại sao chân tôi như dính
cứng vào đất như thế này? Trong giây phút
nguy nan đó, bản năng tự vệ - tự vệ
đây có nghĩa là bảo vệ cho em tôi, khiến tôi
liệng ngay vào kẻ hung dữ kia một vật ǵ mà tôi
có sẵn trong tay, một vật nằng nặng ấy vào
kẻ kia với tất cả sức lực b́nh sinh
của tôi. Nhưng hắn tài quá: hắn đưa tay bắt được vật ấy rồi tôi
mới biết được rằng đó là một
chiếc cưa tay, h́nh ṿng cung, ta thường dùng
để cưa những tấm ván nhỏ. Nguy quá, như
thế là tôi giúp cho một khí giới để tàn hạn
em tôi! Trước sự đau đớn vô biên của
tôi, kẻ kia cười sằng sặc
và cưa em tôi ra làm hai mảnh như cưa một cây
chuối non dại.
Tôi đang
đau thảm thiết th́ bổng thức dậy. Đầu óc tôi
nặng trĩu. Nhưng tôi lại thiếp đi ngay
và mơ thấy giấc mơ thứ hai, ngay sau đó. Tôi
thấy tôi đang đứng ở trong một căn pḥng
khá rộng có bày biện bàn ghế hẳn ḥi chứ không
phải là một căn pḥng trống trải như trong
giấc mơ trước nữa. Tôi thấy một con rùa
nhỏ bé bằng đồng, con rùa theo
h́nh dáng những cặp rùa mang trên lưng những chân
đèn cắm nến thấy trên các bàn thờ ở quê nhà.
Con rùa ấy th́ tượng trưng cho ǵ th́ tôi không
biết rơ, nhưng tôi nghĩ là rất thân thiết và thiêng
liêng đối với tôi. Không hiểu do đâu mà tôi
biết được rằng nó đang lâm nguy, đang
bị ốm nặng và sẽ phải chết. Mà cái chết của nó có liên hệ mật
thiết đến cả hiện hữu tôi. Lo cho con
rùa tôi mới đi lấy dầu cù là xoa vào lưng nó và đánh
gió cho nó (Nguyên Hưng đừng cười). Tôi làm công
việc ấy với tất cả thận trọng,
sốt sắng trang nghiêm và tin tưởng. Nhưng
bỗng nhiên con rùa kêu khóc. Kêu khóc bằng cách
nào th́ tôi không biết. Tôi chỉ biết là bệnh
t́nh nó trở nên trầm trọng do một sự vụng
về nào đó của tôi. Tôi xem xét lại th́ thấy có
một đường nứt trên lưng con rùa. Tôi
hoảng hốt nghĩ rằng có lẽ dầu cù là
thấm vào đường nứt ấy đă gây tác
động nguy hại cho lục phủ ngũ
tạng của rùa. Và con rùa sắp chết. Tôi hoảng
hốt thêm, định lấy một cây tăm
khươi bớt chất dầu cù là ở trong kẻ
nứt ra, nhưng chậm mất rồi. Có một âm thanh
kỳ bí nào nói thẳng tới tâm hồn tôi, cho tôi biết
con rùa đang dẫy chết. Lúc đó trong trạng thái
tuyệt vọng và hối hận vô song, tự nhiên tôi
quỳ xuống trong tư thế cầu nguyện. Cầu nguyện ai tôi không biết. Tôi chỉ biết là chỉ trong dáng điệu
ấy tôi mới thấy thích hợp với tâm trạng
tuyệt vọng đang ngự trị trong tôi.
Nhưng con rùa đă quằn quại dẫy chết. Nó
uốn éo như một chiếc bong bóng cao su bị dằn
ép và không biết vỡ khi nào. Rồi bổng nhiên nó vỡ
tung vàc các tia nước từ nó bắn ra
tứ tung, một tia nước bắn thẳng
về phía tôi. Tôi nhẩy lùi một bước tránh tia nước đó. Tia nước rơi
xuống trước mặt tôi và biến thành một
vật ǵ nhỏ bằng một cái khuy, xoay tít như chong
chóng. Đến khi vật ấy hết quay, tôi nh́n rơ th́ ra
là một bông hoa bốn cánh như hoa lan.
Rồi bổng nhiên tôi thấy đứng ở ngoài
đường: một số người bị ôm
liệng vào phía sau một chiếc xe cam
nhông to lớn. Những người này bị liệng lên xe một cách tàn nhẫn quá khiến cho có
rất nhiều người trong đó bị gẫy
đôi, gẫy đôi một cách dễ dàng như những
con người làm bằng chất sành chất sứ.
Thế rồi những
chiếc xe cam nhông rồ máy chạy vút
đi như bay để lại cho tôi một khoảng
không gian rộng lớn đầy những bụi mù
đỏ chạch. Lúc đó tôi thức
dậy. Tim tôi đập th́nh thịch.
Đau khổ trong giấc mơ c̣n làm cho tôi
tê dại cả người. Tôi đưa tay lên vỗ nhẹ trên trán và cố gắng
mỉm cười. Nụ cười
đến trên môi tôi thực như tôi đă ước
muốn. Nhưng gian pḥng im lặng của tôi vẫn
c̣n phảng phất không khí rùng rợn của giấc
mơ. Mồ hôi ướt đẫm cả trán cả
gối, cả áo. Tôi làm một ít cử
động. Cố sức ngồi dậy, lấy
khăn lau sạch mồ hôi và đi thay áo. Tôi
không ngủ nữa. Tôi thắp một cây nến,
bởi v́ ánh sáng điện sẽ sáng quá và sẽ làm tôi
mệt, và ngồi làm massage cho máu trong người chảy
đều. Tôi ôn lại những chi tiết
của hai giấc mơ (hay là một giấc mơ?) và
cố t́m cách giải thích. Nhưng tôi
không giải thích được.
Mấy hôm sau
đó tôi đem những giấc mơ kể lại cho
một số người quen. Gordon đă hùng biện giải thích bằng nhiều
cách, nhưng chẳng có cách giải thích nào phù hợp
với thực trạng tâm linh của tôi cả. Có thể
đó là phát biểu của những lo ngại tập thể,
hoặc cũng có thể chỉ là những h́nh ảnh
chắp nối đầu Ngô ḿnh Sở trong một t́nh
trạng thân thể c̣n bị đau ốm đang chịu
tác động của thuốc men, chẳng có nghĩa lư ǵ
cả.
Dù sao, Nguyên Hưng ơi, tôi
vẫn thấy mang máng rằng những giấc mộng kia có liên hệ xa gần với những câu
thơ của Lư. Nếu phong ba băo táp đến, th́ tôi
ước muốn được có mặt để cùng
được chịu đựng với tất cả
mọi người. Đừng để đến khi
tôi về, th́ chỉ c̣n “một khung trời đổ nát”
trong đó tôi chỉ t́m được h́nh bóng của những
người thân yêu ở “trong tận đáy ḷng” của
tôi.
Nguyên Hưng ơi, hồi tôi
rời Madford và những khu rừng hiền lành, những
chiếc hồ rộng lớn của nó th́ tôi chỉ
kịp ghé Princeton có hai ngày trước khi tôi về Nữu
Ước lại… Cái thành phố có những
chiếc nhà chọc trời ấy không thích hợp với
tôi chút nào. Ở đấy th́ chỉ có một cái
lợi là được gần gũi
những sinh hoạt văn hóa. Luôn luôn có diễn thuyết
hay, có triển lăm giá trị. Luôn luôn có
những buổi đại ḥa tấu. Nữu
Ước có bao nhiêu thư viện,
bảo tàng viện và bác cổ viện lớn. Kỷ niệm ngày đầu tiên tới Nữu
Ước vừa buồn cười vừa bực
bội. Ngày ấy Gordon đưa tôi từ
Không biết Gordon nghĩ ǵ khi
tôi cho anh biết rằng người kia
là người dân Nữu Ước đầu tiên mà tôi
gặp và nói chuyện. Chúng tôi ghé vào một tiệm hấp
nhuộm y phục, bởi v́ tôi muốn thuê nhuộm lai
mấy cái áo tràng nâu của tôi bây giờ đă bạc
mầu rồi. Tiền nhuộm đắt
quá khiến tôi ngần ngại. Một lúc sau ông
chủ tiệm nói với tôi: “Mà ông nhuộm làm ǵ đă
chứ. Tôi biết là trong ṿng vài ba tuần
lễ ông sẽ liệng những cái áo rắc rối
ấy để mặc đồ tây cho mà xem.
Những người ngoại quốc đến đây lúc
đầu th́ mặc quốc phục họ, nhưng sau
đều mặc đồ Tây cả”. Tôi cũng không
buồn cho ông ta biết là áo tôi đang mặc không là
quốc phục nào cả, và tôi không phải là một
người chân ước chân ráo tới cái xứ này. Chúng tôi nói lời cám ơn và bỏ đi.
Buổi chiều hôm ấy tôi
rủ Gordon về tiệm ăn người Việt Nam
ở đường Amsterdam, tiệm ăn duy nhất bán
thức ăn Việt Nam ở đây. Chúng tôi
đi bộ ngược lên đường 21 mới t́m ra
được tiệm. Khi chúng tôi vào th́
tiệm vắng người. Có hai người sinh
viên Việt Nam hầu bàn, một nam một nữ, đang
ngồi nói chuyện. Thấy chúng tôi vào
liền chạy ra mời. Chúng tôi t́m
một góc để ngồi. Có lẽ cả hai
đều phải xa nhà từ hồi c̣n bé nên không nhận
được ra tôi, người đồng hương
trong chiếc áo nâu. Người con gái nói tiếng Anh
thật hay, hỏi tôi có phải người Miến
Điện không. Tôi cười gật
đầu. Gordon cũng cười.
Chúng tôi gọi vài thức ăn chay, rồi nói chuyện hai
người về lai lịch cái tiệm ăn
này. Măi đến khi giă từ tôi mới cho
hai người biết là tôi là người Việt. Cả hai đều mừng rỡ v́ họ
cũng thuộc về một gia đ́nh Phật tử.
Say này tôi biết chính chị Lan
điều khiển quán ăn. Chị nói
chị cũng bận dạy học ở trường nên
không có nhiều th́ giờ chăm sóc quán. Cái quán ăn,
chị nói, vậy mà có giá trị tương
đương với cơ sở văn hóa của ṭa
đại sứ. Người đến ăn
phần lớn là những người trí thức.
Những món ăn, những bức họa, những
đĩa nhạc và nhất là những câu chuyện cùng
những người hầu bàn đă giúp cho khách hiểu
biết và yêu mến Việt
Đó là những ǵ tôi không quên
về ngày đầu tiên tôi đến với thành phố
nhộn nhịp kia. Mùa thu
năm nay khi trở về, tôi quen thuộc với khung
cảnh hơn, dù vẫn thấy rằng những ngày
ở rừng Mendford quá ngắn. Từ đầu mùa thu tôi được nhận làm việc
tại trường đại học
Cái chú Steve ấy, để tôi
nói cho Nguyên Hưng nghe, đă ăn chay trường với
tôi trong suốt mùa thu qua cả nữa
mùa đông này nữa. Tôi hỏi ăn
chay có yếu đi không. “Trái lại c̣n
thấy khỏe mạnh thêm”. Từ ngày có Steve, chúng
tôi tự nấu ăn lấy mỗi ngày và ngày nào cũng
được hai lần ăn cơm, bằng đũa. Steve cầm đũa khá vững v́ đă
được ở lại Nhật Bản mấy tháng mùa
hè năm ngoái.
Chỉ sau mấy ngày gặp
Steve tôi mến chú ta liền, cũng thân thiết như
với Hưng và Tuệ vậy. Steve cao
bằng tôi, tóc hơi vàng và rất mềm, cằm anh ta
hơi nhọn. Mắt mầu nâu. Rất giàu t́nh cảm và tính cách nghệ sĩ.
Steve rất ham triết học đông phương; từ
mùa thu chú ta đă ghi tên học những
lớp đông phương học, kể cả một
lớp Hoa ngữ. Cứ nh́n thấy cậu
ta ngồi tập viết chữ nho cũng đă thấy
thương. Không có sự vui buồn nào
trong đời mà Steve lại không về kể lại với
tôi. Tôi hay có những nhận xét về
suy tư của Steve và anh chàng thường hay ngồi
chăm chú để mà nghe; đôi khi nhíu lông mày đê làm
nhăn một ít cái trán thông minh của nó. Thỉnh
thoảng chúng tôi cũng có hơi giận nhau, nguyên do là v́
Steve vẫn c̣n quen cái thói tiếp nhận theo
đầu óc Tây phương, và tôi cứ nghĩ rằng
tôi không diễn tả bằng bằng cách nào hơn là
bằng cách đông phương của tôi. Tôi chắc Steve
nhiễm cái đường lối của giáo sư Cerbu
“go East but stay West” rồi. Stay West th́
làm chi có thể thực sự go East hả Nguyên
Hưng.
Cái nhà chúng tôi thuê với giá 150
đồng bạc mỗi tháng có 1 pḥng ngủ, một pḥng
làm việc, một pḥng tắm, một cái bếp và một
cái hành lang. Đó là địa chỉ của tôi bây giờ:
306 west 109 th Street. Chúng tôi ở từng thứ năm, có hai
cửa sổ lớn nh́n ra đường. Phải nh́n
nghiêng mới thấy được một mảnh
trời, về phía Morning Side. Những bàn ghế,
giường nệm, chén bát và soong
chảo đều do Steve chở về, nên khi thuê nhà tôi
chẳng thể lo lắng ǵ cả. Steve là con của
một ông khoa trưởng một trường kỹ
thuật nổi tiếng, ḍng giỏi thông minh nhưng không
thích khoa học, kỹ thuật. Mẹ
của Steve có đến thăm một lần cách đây
chừng nữa tháng và mang cho chúng tôi vô số thức
ăn ngon.
Người tôi phân chia công
việc như thế này: tôi th́ lănh phần nấu ăn và rửa bát. C̣n Steve th́
đi chợ và dọn dẹp lau chùa nhà cửa. Steve
phải đi học nhiều nên tôi phải ra tay làm nội trợ. Mỗi ngày tôi chỉ
cần có mặt ở trường vài giờ đồng
hồ, những giờ dạy và những giờ ngồi
ở văn pḥng - Từ khi thuê được nhà, tôi hay
ở nhà làm việc, thiếu tài liệu ǵ th́ nhờ Steve
mượn ở thư viện giúp. Tôi có cái
thẻ có thể mượn một lần hàng mấy
chục cuốn sách và mượn như thế trong
nửa tháng. Ngồi ở nhà ấm áp một ḿnh, tôi
làm được nhiều việc hơn. Nấu ăn cho Steve cũng là một sự thích thú.
Có thể là món ǵ do tôi nấu ra Steve cũng khen ngon cả -
tôi nghĩ Steve có thể ăn chay suốt đời mà
không biết chán và tôi có thể nấu cho Steve ăn hoài mà
không sợ tốn công.
Cố nhiên là
cậu ta không biết đi chợ - tôi phải dẫn
Steve đến một tiệm bán thực phẩm đông
phương ở gần đấy và chỉ cho cậu
“đi chợ” trong những lần đầu. Chúng tôi mua nấm hương,
tàu yểu, đậu phụ, củ cải, khổ qua,
dưa cải v.v… Rau đậu tươi th́
Steve có thể tự đi mua ở bất cứ một
nhà bán thực phẩm nào khác dọc đại lộ
Broadway. Chúng tôi t́m được chỗ
mua gạo thật ngon và mua từng chục kư chứ không
mua từng hộp nhỏ như những gia đ́nh khác.
Thường thường những hôm đi
học về sớm. Steve ghé chợ mua hai giỏ
thức ăn về chất đầy
chiếc tủ lạnh lớn đặt trong nhà bếp. Cái nhà bếp chúng tôi thật sạch sẽ và trang
nhă. Steve lau chùi nhà bếp và nhà tắm
gần như mỗi ngày. Bếp nấu
gaz cho nên rất tiện lợi. Sáng nào
tôi cũng dậy sớm và sửa soạn điểm tâm
cho hai người. Thường thường, Steve
thức khuya và chỉ dạy đủ sớm để ăn điểm tâm rồi đi học
ngay. Có bữa tôi cũng đến
trường cùng với Steve một lần nhưng chỉ
độ mười một giờ là tôi trở về.
Tôi làm việc một lát rồi đi thổi
cơm và làm thức ăn. Mười hai giờ
mười lăm th́ Steve về, lần nào cũng đói
mèm, và chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Thức ăn bao giờ
tôi cũng làm chung cho cả buổi chiều
trong tủ lạnh; đến tối tôi chỉ cần
thổi cơm và hâm lại thức ăn cho nóng thôi.
Buổi
chiều tôi thường không đi ra ngoài. Tôi viết lách, đọc,
soạn bài, trả lời những thư
từ. Có việc cần tôi mới đi vào trường
hoặc vào thư viện. Thỉnh
thoảng David cùng về với Steve, và chúng tôi ăn cơm
với nhau trong pḥng khách một cách im lặng, trang nghiêm. Sau những bữa như thế, tôi để cho
Steve nói chuyện với David và đi rửa chén bát.
Tôi rất thích công việc này v́ tôi thấy trong khi rửa
chén bát tâm hồn tôi luôn luôn an tĩnh, vui vui. Có khi tôi
bất chợt đang nghịch với những chiếc
bóng xà pḥng và hát nhỏ những bài hát học
được hồi c̣n bé thơ. Nước
vừa ấm thật dễ chịu. Tôi lau chùi cái
bếp gaz thật sạch sẽ, soạn lại
đồ đạc, đi tắm ngâm ḿnh trong nước
nóng, thay áo và ra ngồi góp chuyện với hai người
trẻ tuổi. Những buổi như
thế thật êm đềm. Steve
biết tính tôi, đi tắt điện, thắp lên vài
ngọn đèn nến cho mát mắt và để cho chúng tôi
nghe một ít những bản nhạc êm dịu ưa thích.
Những lúc đó chúng tôi thường không nói chuyện
nữa, chỉ ngồi yên mà theo dơi
những gịng suy tư của ḿnh.
David
thường ở với Steve rất khuya; thường
thường khi nào tôi bảo về mới về. Có lúc hai người bạn
đi với nhau suốt ngày và tôi ở nhà một ḿnh,
nấu cơm một ḿnh, ngồi vào bàn ăn
một ḿnh.
Nguyên Hưng, tôi biết Steve
mến tôi thật sự. Steve nghe tôi nói
về t́nh trạng đất nước chúng ta với
tất cả sự chăm chú và xót xa. Tự nhiên
Steve muốn dùng tiếng Việt Nam, và nếu có thể
được, cùng nuôi ước mộng t́m lai
Phương Bối. Tôi đă nói cho Steve nghe
về t́nh của chúng ta đối với Phương
Bối. Tôi đă nói đến
Phương Bối như một chút lửa hồng không
bao giờ tắt trong tâm hồn mỗi người chúng
ta. Tôi đă nói Phương Bối như một
chất liệu tâm linh cần thiết cho mọi
ước ao, mọi xây dựng. Có thể là tôi đă quan
trọng hóa Phương Bối quá, nhưng mà tại sao
mắt Steve lại sáng lên như thế mỗi lần nó
nghe tôi nói đến Phương Bối? Steve
quyết sẽ học tiếng Việt và tôi cũng
bắt đầu dạy cho Steve những câu đàm
thoại đầu tiên. Steve rất ham
học ngoại ngữ. Nói tiếng Pháp
c̣n chập chững mà đ̣i làm thơ. Rồi
trong những lúc đi chợ mua thức ăn, cứ
nấn ná ở lại để tập nói tiếng Tàu
với cái cô bán hàng người
Steve dành làm
tất cả những công việc khó nhọc. Biết tôi
rất có thể bị cảm khi ra ngoài lạnh nên Steve
dành đi những công việc mà Steve có thể làm thay tôi
được. Tội nghiệp, những hôm tôi
bị cảm, Steve phải “cạo gió”, và v́ hai tay của
Steve khá mạnh, chẳng mấy chốc mà tôi đă
thấy ấm áp. Nếu tôi không bớt th́
Steve lại gọi điện thoại cho bác sĩ Cusbman.
Steve không được sung
sướng mấy khi nghĩ đến gia đ́nh. Hè
năm ngoài trong khi ở Nhật Bản, anh chàng có làm quen
được với một thiếu nữ Nhật và hai
người đă trao đổi thư
từ thân mật từ đầu mùa thu đến nay.
Người bạn gái Phù tang tên là Hạnh Trí Tử,
hẹn sẽ sang thăm trong mùa Xuân tới và Steve cứ
nhắc hoài đến dịp ấy. Néu không bị gia
đ́nh gọi th́ Steve đă có thể theo
tôi về Priceton trong dịp lễ giáng sinh này rồi. Nó
đă về quê bằng máy bay hai hôm trước khi tôi
rời Nữu Ước. Căn nhà chúng tôi hiện giờ
ở đường 109 có lẽ đang lạnh lẽo,
không đèn, không đuốc, không hơi ấm. C̣n tôi, tôi
đang ngồi đây, giữa ḷng