PHẦN THỨ NHẤT 

IV

 

Nguyên Hưng, không phải tôi chỉ nghe tiếng gọi mầu nhiệm kia trong lúc trăng và rừng nói chuyện hay trong những cơn mưa lớn đầu mùa. Tôi lại c̣n nghe tiếng gọi ấy và những buổi trưa rất là yên lặng nữa. Những buổi trưa ở quê hương ta, những buổi trưa mà Lưu Trọng Lư nghe thấy cả tiếng gà năo nùng xao xác gáy, những buổi trưa mà Vũ Anh Khanh thấy cả nắng lổ đổ rụng lên đầu người viễn khách ở xóm đạo vắng người. Những buổi trưa ấy miền Bắc cũng có, miền Trung cũng có, mà miền Nam cũng có. Tôi không tin rằng buổi chiều, dù rằng những buổi chiều nh́n ra cửa biển, là lúc gợi buồn nhiều nhất. Buổi chiều đối với tôi dù là ở đâu cũng chỉ là đẹp thôi, chứ không buồn. Chỉ có một lúc duy nhất trong ngày có thể gọi là buồn: đó là buổi trưa, vào khoảng một giờ, hay trễ hơn một chút. Buổi chiều cũng như buổi mai, bao giờ cũng linh động, biến ảo và tràn đầy sức sống. Buổi chiều đă không mang màu sắc tàn tạ như người ta thường tưởng, mà trái lại c̣n hứa hẹn một sức sống rạt rào vào đêm. Tôi thấy vũ trụ sống về ban đêm nhiều hơn. Ban đêm, cái ǵ cũng linh động, cũng mầu nhiệm, cũng hùng mạnh. Chỉ có loài người mới ngừng hoạt động trong đêm, chớ vũ trụ, từ trăng sao nước mây đến trùng dế cây cỏ đều ŕ rào mầu nhiệm. Nếu nói đến giờ ngưng đọng, ấy phải là giờ buổi trưa, lúc quá ngọ một chút. Không có một giọt gió. Trời cao cao quá, cao đến im ĺm, cao cho đến nỗi trở nên vô cùng sâu thẳm. Cây cối như chết đứng; không nói năng được một lời nào trong giây phút ấy. Mặt trời như thôi miên trái đất và điểm huyệt trái đất bằng con mắt lửa hung hăn của nó khiến trái đất và muôn loài trên trái đất trở thành bất động không c̣n cựa quậy được nữa. Tôi dám chắc rằng đúng vào giờ phút ấy trái đất không thể nào c̣n quay được. Phải đợi cho đến khi nào có một đám mây hoặc một tí gió tới cứu văn th́ trái đất mới thoát khỏi được t́nh trạng bị điểm huyệt và mới có thể tiếp tục cuộc hành tŕnh. Nếu ta thiếp đi vào buổi trưa trong một giấc ngủ ngắn mà thức dậy đúng vào giờ phút ngưng đọng ấy, th́ lập tức ta nghe tiếng gọi. Tôi nghe tiếng gọi như thế đă có đến hàng trăm lần rồi Nguyên Hưng, mà lần nào trái tim tôi cũng hồi hộp như nhau. Mà v́ vừa mới thiếp đi cho đến lúc chợt tỉnh tôi nghe nó không phải với lư trí của tôi mà với tất cả biển tiềm thức c̣n đương dâng tràn, c̣n chưa kịp rút xuống khỏi lằn mức ư thức. Tôi nghe tiếng vũ trụ gọi tôi về, và tất cả bản thể tôi rung động đáp lại tiếng gọi ấy.

Nguyên Hưng, ơ ûPhương Bối tôi cũng trải qua bốn lần nghe như vậy. Rừng cây ít khi nào đứng chết lặng như trong những lúc ấy và trời không bao giờ cao như thế, sâu như thế. Trong giây phút kia, tôi thấy ḷng ngập nhớ nhung và một niềm thao thức muốn trở về. Trở về theo tiếng gọi mầu nhiệm. Những lúc ấy tôi có cảm giác như đứng ở một biên giới có sương mù. Nếu tôi làm tan được sương mù ấy, tôi có cảm tưởng nó có thể tan biến trong bất cứ một sát na nào, dễ như không, dễ như nó chưa bao giờ từng hiện hữu, em ơi.

Nguyên Hưng, để tôi nhắc lại cho Nguyên Hưng nghe về đem giao thừa đầu tiên ở Phương Bối. Từ hôm hai mươi sáu Tết, Triều Quang, Từ Mẫn và Thanh Hiện đă tự động kéo về Phương Bối, như con trở về nhà cha mẹ vào những ngày giỗ lớn. Quang ở Dalat về mang theo rất nhiều nhánh bạch mai thật đẹp. (Trước đó, chị Diệu Âm đă cho Như Hiền đem tặng cho chúng ta rất nhiều cây bạch mai con để trồng quanh nhà). Chúng ta bàn với nhau ăn một cái Tết lớn nhất trong đời chúng ta, và ăn tại Phương Bối. Sau một đêm bàn luận, chúng ta đồng ư như sau:

1) Đốt một đống lữa vĩ đại ngay trên đồi Thượng.

2) Cắm trại ở đồi Thượng.

3) Nấu một thùng bánh chưng ở trên đồi Thượng.

4) Cúng giao thừa, đốt pháo ở đồi Thượng.

5) Hội họp ăn bánh chưng, chúc Tết và b́nh văn ở đồi Thượng.

Cái đống lữa vĩ đại ấy, chắc trong chúng ta không ai có thể quên được. Nguyên Hưng cũng nhớ là để phá rừng trồng trà chúng ta phải đốn ngă hàng trăm cây rừng thật lớn. Những cây ấy, sau khi chúng ta đốt rừng, đă bị cháy xém và khiêng chất thành lại thành đống. Chúng ta đă tốn hết hơn hai ngày mới chất được đống củi. V́ vậy đống củi lửa trại to lớn như một cái nhà và đă được chất lên một cách rất công phu. Trong ḷng đống củi vĩ đại, chúng ta đă đặt rất nhiều cỏ khô, lá khô và các cành củi rất dễ bén lửa. Đống củi đă cháy suốt đêm giao thừa và măi đến sáng ngày mồng hai vẫn c̣n cho ta than hồng. Nguyên Hưng nhớ không?

Ban đầu th́ một số trong chúng ta không tán thành ư kiến cắm trại trên đồi Thượng v́ sự sương khuya. Nhưng sau lại, chúng ta quyết định cứ căng lều trên đồi, bởi v́ đống lửa vĩ đại sẽ làm tan sương và ấm cả khu đồi. Mà thực vậy, Nguyên Hưng. Không những chúng ta thấy ấm mà nhiều khi c̣n thấy nóng bức là khác nữa.

C̣n bánh chưng, Lư là người Bắc và lư tuyên bố có thể gọi bánh chưng vào hạng đẹp nhất Bắc Hà. Ban đầu ai cũng tưởng là Lư chỉ “ăn to nói lớn” theo kiểu một nhà văn như Lư, nhưng sau khi thấy Lư trổ tài, ai cũng phục lắm. D́ Tâm Huệ mua nếp, đỗ xanh và cung cấp lá rong tươi cho Lư. Hôm gói bánh tôi cũng làm phụ tá cho Lư trong việc lau lá, xếp lá, rọc lá. Lư làm một cái khuôn nhỏ và gói những chiếc bánh chưng nhỏ xíu, vuông vắn, thật đẹp. Bánh chưng được nấu từ lúc năm giờ rưỡi chiều để kịp chín nữa giờ trước giờ Giao Thừa. Mẫn và Hiện đă bắc hai bếp gần dưới chân đồi Thượng, một bếp để luộc bánh chưng, một bếp khác để nấu nước sôi tiếp cho nồi bánh. Bếp phải đặt phía dưới, bởi v́ gần đỉnh đồi quá th́ sẽ nóng v́ đống lửa đỉnh đồi.

Cả nhà chuẩn bị ăn Tết một cách rộn rịp và chính sự chuẩn bị rộn rịp để ăn Tết ấy quả đă là Tết một cách đích thực rồi. Từ lúc ba giờ chiều, Nguyên Hưng và Triều Quang đă vào rừng đốn về những cây tre lớn và cưa ra từng ống một, chất đầy bên lều. Khi thùng bánh chưng sôi, tất cả chúng ta đều tắm rửa, quây quần trong chiếc lều lớn nhất cắm trên đồi, nghỉ ngơi, nghe chương tŕnh phát thanh cuối năm của đài Saigon từ chiếc Sony quen thuộc và ăn cơm, một bữa cơm chiều thật đơn giản. Tha hồ cho chúng ta nói chuyện bốn phương. Hồi ấy thường trú tại Phương Bối mới chỉ có Nguyên Hưng, Lư, Tuệ, d́ Tâm Huệ và tôi, c̣n những người khác là “chim bốn phương bay về đây cả”. Những con chim ấy bay về Phương Bối và tíu tít kể cho nhau nghe những mẩu sinh hoạt những câu chuyện những biến cố đă xảy ra cho chúng từ những phương trời khác nhau. Không ai là không thấy rơ rằng Phương Bối chính là alma maier của ḿnh.

Trên những cây cao c̣n lại của đồi Thượng và cả trên lan can của thiền thất nữa, Mẫn và Lư đă treo đèn. Vào lúc mười giờ rưỡi, Nguyên Hưng ra lệnh đốt lửa. Thế là chỉ trong nửa giờ sau, đống lửa cháy rực trời trên đồi Thượng. Tàn lửa lên cao, cao ngất, khiến cho một vài người trong số chúng ta tỏ ư lo ngại cho sự cháy rừng. Nguyên Hưng nghĩ, cháy rừng làm sao được khi tàn lửa phải bay lên được bốn trăm thước mưói tới được cửa rừng? Tuy vậy, đống lửa vĩ đại soi sáng rực rỡ cả một vùng núi hoang dại. Bởi v́ đồi Thượng là chiếc đồi cao nhất trong vùng. Chúng ta trông rơ tất cả những vùng núi bao quanh Phương Bối nhờ ánh lửa rực trời trên đồi Thượng. Có lẽ tất cả thú vật, dân chúng của núi rừng đang ngạc nhiên, và qua kẻ lá, đang hướng những cặp mắt nh́n về đồi Thượng. Xa xa, ta có thể trông thấy ngôi nhà của Đại Hà thấp thoáng trong đồi núi chập chùng. Mười một giờ rưỡi khuya rồi và đống lửa đă cháy lên rất cao. Chúng ta trở về thiền thất cúng giao thừa. Chiếc bánh đầu tiên vớt ra đă được đem lên cúng Phật. Buổi lễ đơn giản và ấm áp chỉ kéo dài vào khoảng 20 phút. Giao thừa đến Mẫn, Hưng, Quang, Hiện, Lư, tất cả đều mang các ống tre liệng dần vào đống lửa vĩ đại. Đó là pháo lệnh giao thừa của Hưng đấy. Các ông tre liên tiếp nổ lớn vang động cả núi rừng và có lẽ làm kinh hoàng cả mọi loài ẩn náu trong rừng. Tôi c̣n nhớ là các cậu đă quăng vào đống lửa năm mươi mấy ống pháo tre như thế, và không có ống tre nào là không nổ lớn.

Bánh chưng của Lư quả thật là rất ngon - có lẽ cũng ngon nhờ những điều kiện khác nữa, như là không khí đặc biệt của Phương Bối, sự hiểu biết của mọi người, vui vẻ của mọi người và nhất là sự… đói bụng của mọi người. Nói như thế không có hại ǵ đến cái “uy tín” gói bánh của Lư cả. Mỗi người trong chúng ta phải chúc tất cả mọi người và như thế chúng ta nghe tất cả đến năm mươi bốn câu chúc tết. D́ Tâm Huệ tỏ vẻ nhiều e thẹn nhất dù d́ lớn tuổi bằng d́ của tất cả chúng ta, và d́ đă chúc cho tất cả những câu chúc đơn sơ mà chân thành cảm động.

Tôi nhớ suốt ngày mồng một tết các cậu dă chia thành hai ba toán rủ nhau đi chơi thám hiểm núi rừng. Đến đâu cũng đốt lửa, chặt tre làm pháo đốt vang cả rừng. Thầy Thanh Từ chưa có mặt ở Phương Bối trong cái tết thứ nhất ấy. Nhưng trong cái tết thứ hai, thầy cũng tham dự những tṛ nghịch ngợm nhất của mọi người. Ở đây ai cũng dễ dàng sẵn sàng để mà “đồng sự”. Kiểu chào của thầy Thanh Từ cũng thay đổi như tất cả mọi người và cả đến những kiểu sinh hoạt khác như đi núi, trồng cây, cắm trại nữa.

Lần đầu lên Phương Bối thăm, thầy Thanh Từ đă tỏ sự ưa thích Phương Bối một cách mặn nồng. Thầy bảo chúng ta nhường cho thầy một ít vùng núi để làm thiền thất. Tôi nói: tất cả rừng núi Phương Bối là của thầy. Thế là sau đó vài ba tháng, nhờ sự giúp đỡ của vài người bạn thân của thầy, chúng ta đă dựng nên một thiền thất ở triền Đông Bắc của đồi Thượng. Nhà thiền này được đặt tên là Thiền Duyệt Thất. Duyệt có nghĩa là sự vui vẻ hoan lạc về tinh thần. Trong bài cúng dường của Nhị Thời Khóa tụng, ta thấy có câu thiền duyệt vi thực nghĩa là thức ăn làm bằng sự hoan lạc của thiền định. Thầy Thanh Từ nghe đặt tên cho nhà thiền như thế th́ chịu lắm bèn chấp nhận ngay.

Bên cạnh Thiền Duyệt Thất, chúng ta c̣n xây thêm một cái hồ chứa nước nữa và thầy Thanh Từ đă tự tay làm một chiếc giàn hoa leo thật đẹp phía trước. Hai bên con đường từ dưới đồi đi lên, thầy đă trồng những cây thông con bứng về từ Djiring. Thầy lại c̣n trồng thêm bao nhiêu là thứ hoa nữa xung quanh thất. Lúc Thiền Duyệt Thất làm xong, th́ chiếc nhà Thượng cũng được khởi công dựng trên chót vót đỉnh đồi. Hai người có công nhất là Triều Quang và Nguyên Hưng. Hợp tác với anh Phương ở ngoài xóm và với hai người Thượng nữa Quang và Hưng đă hoàn thành được chiếc nhà duyên dáng ấy trong ṿng một tháng. V́ đứng chót vót trên đỉnh đồi nên nhà Thượng phải được tạo dựng vững chăi. Tôi biết Nguyên Hưng đă tốn rất nhiều công phu vào ngôi nhà ấy. Tôi đă cùng Nguyên Hưng trang trí bên trong và bên ngoài nhà Thượng. Sau này chính nhà Thượng trở thành h́nh ảnh tượng trưng nhất của Phương Bối. Buổi chiều chúng ta hay quây quần bên nhà Thượng cho đến tối, và nhiều đêm chúng ta đem chăn ngủ ngay ở sàn nhà Thượng. Có đêm rét quá mà trên đồi th́ nhiều gió, chúng ta bắt buộc ôm chăn rời nhà Thượng nửa đêm để về nhà cũ. Tôi không quên được những đêm chúng ta đứng trên lan can nhà Thượng ngắm sao ngắm trăng. Những đêm như thế thật là huyền diệu. Sao và trăng gần chúng ta quá. Nhất là sao Mai. Lớn gần bằng một mặt trăng. Không biết ở những nơi như Trúc Lâm, Toàn có thấy sao Mai lớn như thế không. Có những đêm tôi kéo Lư ra khỏi những đống bản thảo dày cộm của Lư để chỉ cho Lư thấy trăng sao thấy sao. Tôi th́ cũng ham viết lắm, nhưng vào những đêm nhiều sao như thế này, tôi không thể nào viết được.

Nguyên Hưng, tôi nghe Phương Bối đă trở nên bất an quá, cho nên thầy Thanh Từ cũng đă rời Thiền Duyệt Thất mà về Phú Lâm rồi. Thật là buồn. Hôm tôi từ giả Phương Bối, tôi tưởng thầy Thanh Từ có thể ở lại Phương Bối b́nh yên. Nhưng mà không. Lâu nay Nguyên Hưng có tiếp xúc với thầy Thanh Từ bằng thư không? Hôm qua, tôi có viết cho thầy Thanh Từ một lá thư. Lá thư c̣n để đây, chưa có dịp gởi nhà giây thép. Tôi đă viết lá thư ấy trong một tâm trạng b́nh yên và yêu thương. Nhưng chỉ những người thuộc về “thánh địa” Phương Bối như thầy Thanh Từ, như Hưng, như Lư mới hiểu được tại sao tôi có thể viết như thế mà thôi. Thôi để tôi chép cho Nguyên Hưng đọc một đoạn trong lá thư đó. Đoạn này nằm ở giữa lá thư.

“Tôi đă t́m ra chân lư rồi. Trời ơi có phải là nghe câu ấy thầy đang ôm bụng cười tôi phải không? Tôi nói thật đó mà. Khi tôi thấy nó, tôi giật ḿnh. Nó không phải là ai xa lạ cả. Nó là, thầy ơi, nó là kẻ mà tôi đă gặp từ lâu, đă biết rơ mặt mũi từ lâu. Nó không có chi mới lạ đối với tôi cả. Thế mà tại sao lâu nay, có tới ngàn vạn kiếp rồi, tôi không nhận diện được nó. Lần này thấy nó, tôi ngạc nhiên đến nỗi không biết làm ǵ hơn là phá lên cười. Cũng giống như bây giờ thầy đang ôm bụng cười tôi vậy.

Tôi hỏi: “Tôi tưởng tên của cậu mày hay như thế th́ mặt mũi cậu phải đẹp lắm kia chứ?”.

Nó hỏi lại: “Vậy thầy thấy tôi xấu hay sao?”.

Tôi giật ḿnh nó lại, th́ quả thực nó không xấu.

Nó lại hỏi: “Hởi người đă t́m thấy tôi, người sẽ làm ǵ chiều hôm nay?”

Tôi nghiêm trọng trả lời: “Ta sẽ đi ăn cơm khi ta thấy đói bụng, và sẽ ngủ khi ta thấy buồn ngủ.”

Thầy ơi, hôm từ giă phi trường Tân Sơn Nhất, tôi có mang theo một cái hột gà. Tôi như một con gà ấp trứng, và luôn luôn có một cái hột gà để ấp, đêm và ngày. Tôi mang theo qua bên này một cái hột gà đă ấp từ sáu bảy hôm nay, và những kẻ đưa tôi ra phi trường không có ai hay biết. Họ chỉ biết tôi mang theo một cái áo lạnh và một cây viết Pilot. Nhân viên quan thuế không biết, mà tôi cũng không biết phải khai báo ra làm sao. Tôi nín thinh. Nhưng mà tôi tin ngồi ở Thiền Duyệt Thất, thầy có thể biết. Tôi nhớ cũng đă từng nói cho thầy nghe và hứa với thầy là khi nào hột gà nở ra con gà th́ tôi tin cho thầy hay. Thầy có nhớ điều đó không? Hôm nay tôi có thể tin cho thầy biết là thêm một năm ấp ủ, và do khí hậu thuận lợi, con gà đă mổ được vỏ quả trứng và chui ra ánh sáng. Ra khỏi vỏ nó lớn rất mau chóng, không khác ǵ cậu bé Phù Đổng năm xưa.

Đêm mồng bảy tháng năm vừa qua, tôi được chứng kiến một cuộc đàm thoại giữa Đức Phật và Ma Vương Ba Tuần, Đức Thế Tôn tiếp Ma Vương Ba Tuần tại núi Linh Thứu với tư cách một thượng khách của Ngài. Thầy nghe không, một thượng khách của Ngài. Tôi thích thú lắm. Tôi định sẽ ghi tất cả nội dung của cuộc đàm thoại đó làm thành một cuốn kinh:

“Đức Phật: Xin mời Ngài ngồi.

Ba Tuần: Xin cám ơn Ngài. Gớm cái ông thị giả của Ngài khó tính quá. Khi tôi xưng danh hiệu, ông ta nhất định không cho tôi vào. Ông nói: Nhà ngươi c̣n đến đây làm ǵ? Ngươi không nhớ năm xưa dưới gốc cây Bồ Đề, ngươi đă bị đức Thế Tôn đánh bại hay sao? Ngài sẽ không tiếp nhà ngươi đâu. Nhà ngươi là kẻ thù của Đức Phật”. Tôi phải nói khích một câu ông ấy mới cho vào.

Đức Phật (cười): Ngài nói khích như thế nào?

Ba Tuần: Tôi nói: “Phật th́ làm ǵ có kẻ thù. Phật mà c̣n phân biệt kẻ oán người thân th́ đâu có phải là Phật”. Chừng ông ta đă được nghe đâu cái câu ấy của Ngài một vài lần rồi cho nên khi nghe tôi nói khích ông ta động ḷng tự ái, cho tôi vào ngay.

Đức Phật: Cái kiểu của ngài th́ muôn đời như vậy. Và cứ phải mưu mô mà đi đường cong như vậy th́ mới thắng được thiên hạ. Nhưng mà thực ra có dám làm như thế mới được gọi là Ma Vương.

Ba Tuần: Đúng lắm thưa Ngài. Làm Ma Vương bực lắm. Mặc áo th́ luôn luôn phải mặc áo giấy. Vẻ mặt th́ khi nào cũng phải hoặc nham hiểm, hoặc độc ác hoặc u mê. Thở th́ phải thở toàn khói nghi ngờ đen nghịt. Để có h́nh thức phù hợp. Để cho danh chánh ngôn thuân là Ma Vương mà. Đi đâu thiên hạ cũng tránh, cũng ghét, cũng sợ. Làm Ma Vương quả thực bực lắm.

Đức Phật: Vậy ngài tưởng làm Phật sung sướng lắm hay sao? Thiên hạ dán vào lưng tôi nhiều nhăn hiệu mà tôi không hề tự xưng bao giờ. Thiên hạ đem tôi ra bán buôn. Và cứ tưởng tượng ngồi trên xe hoa để thiên hạ rước đi từng bước gật gù qua các phố bán than, bán thực phẩm, bán nước mắm v.v… th́ tôi tưởng Ngài sẽ chẳng bao giờ ước muốn làm Phật, Thế Tôn của nhân loại.

Nghe đức Thế Tôn nói xong, Ba Tuần cười ha hả…”

Nguyên Hưng ơi, tôi chỉ chép Nguyên Hưng đọc từng đó mà thôi nghe.

Không phải tôi sợ rằng Nguyên Hưng nh́n tôi bằng cặp mắt thương hại hay trách móc đâu. Tôi đă nói với Nguyên Hưng rằng tôi viết lá thư đó trong tâm niệm an lành và thương yêu rồi mà. Mai sau nếu chúng ta được trở về Phương Bối th́ bản thảo cuốn kinh kia sẽ được để trên bàn giữa của chiếc nhà Thượng. Và sẽ chỉ có những người có căn cơ đại thừa của đại thừa mới được đọc cuốn kinh đại thừa của đại thừa ấy có phải không?…

 V

 

Mấy hôm này trời khá lạnh. Ngày mốt tôi đă phải rời bỏ nơi đây rồi. Tôi sẽ ghé Princeton thăm và ở lại đây vài hôm trước khi về Nữu Ước. Những ngày sống nơi đây thật là an tĩnh và mạnh khỏe. Tôi đă chơi rừng, đă chèo thuyền, đă bơi lội với bọn trẻ. Tôi làm tất cả những công việc bọn trẻ làm: đi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, tập làm thủ công, chơi bóng bàn, bóng chuyền, chạy đua, đóng kịch, hát, chơi tṛ chơi lớn… Bọn trẻ thích nhất nói chuyện với tôi và ưa đi theo về Pomona trong những giờ tự do. Tôi đă nói chuyện nhiều lần cho từng nhóm ba bốn chục người. Tối hôm qua người ta làm lễ bế mạc trại theo h́nh thức của người thổ dân bản xứ. Họ mời tôi tới dự: và bởi v́ là khách “quư” tôi được trao tặng lông chim xanh danh dự. Có những màn khiêu vũ kiểu thổ dân rất ngoạn mục. Buổi lễ được tổ chức trong một khu rừng âm u vào lúc mười giờ đêm. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe.

Từ những khu trại khác nhau. Lúc chín giờ rưỡi đêm, các trại sinh từ bé tới lớn sắp hàng đi lặng lẽ về địa điểm làm lễ. Có những con đường ṃn khác nhau dẫn tới khu rừng đă được chọn làm địa điểm ấy, và từng đoàn người trong bóng đêm đi im lặng như những bóng ma. Không ai được đốt đuốc cả. Người đi đầu mỗi đoàn đă phải học thuộc đường rồi và như thế cả đoàn cứ việc đi theo anh ta không sợ vấp, vướng hay đâm nhào vào bụi. Có trên năm trăm trại sinh trong toàn trại, và im lặng được tuyệt đối tôn trọng. Tôi thấy họ dạy dỗ trẻ con tài quá. Mỗi đoàn, khi tới địa điểm, im lặng t́m đến chỗ ngồi của ḿnh. Nơi làm lễ là một khoảng đất trống. Dưới ánh sao, người ta chỉ trông thấy lờ mờ một đống củi. Tất cả đều lặng lẽ chờ.

Đúng mười giờ. Từ một góc rừng vọt ra một âm thanh lạ kỳ, một âm thanh có tính nguyên thỉ và man rợ. Tiếp theo là tiếng trống báo hiệu người tù trưởng đến. Một lúc sau xuất hiện ba bóng đen trước đống củi lớn. Một bóng đưa tay làm phép trên đống củi và đọc một đoạn cầu nguyện cho lửa thiêng trở về. Giọng hắn nghe mọi rợ và ghê rợn. Người ta chờ đợi. Vài phút sau có tiếng rẹt rẹt trong đống củi, và một tia lửa xanh xẹt lên. Đống củi bừng cháy.

Lửa càng lúc càng sáng và soi rơ h́nh dáng ba người thổ dân, cố nhiên là do trại sinh trá h́nh. Tất cả đều đóng khố. Thân h́nh đen thui đen thủi, v́ đă được bôi thuốc. Mặt mày cũng thế. Lại có thêm nét rạch. Đầu đội lông chim. Tên đứng giữa ra lệnh khai mạc buổi lễ. Những màn múa bắt đầu. Trại sinh đă tập luyện rất kỹ lưỡng. Người nào người ấy đều phục sức như thổ dân, và những màn múa cố gắng diễn tả nếp sống tôn giáo tín ngưỡng của các bộ lạc. Tất cả trại sinh dự kiến đều im lặng. Không ai xuưt xoa một tiếng nào, và màn vũ đặc sắc cách mấy cũng không được vỗ tay. Tôi ưa nhất là cảnh đánh nhau bằng đuốc. Để cướp một người đàn bà, hai thanh niên đă phải đấu đuốc với nhau. Họ cầm những cây đuốc sáng rực và tấn công nhau một cách mănh liệt. Tất cả mọi người đều hồi hộp cho đến khi cuộc đầu kết thúc và một trong hai người được phép chiếm hữu người đàn bà.

Tiếp đến là lễ tặng lông chim xanh danh dự cho những người có công trong “vương quốc” Ockanickon, nghĩa là cho những trại sinh xuất sắc của trại hè. Khi tù trưởng gọi đến tên một người nào được tặng lông chim danh dự, th́ từ bốn phía rừng Đông rồi Tây rồi Nam rồi Bắc, vọng lên tiếng tên họ của người ấy kèm theo tiếng mơ ngắn. Tiếng vọng có vẻ huyền bí như tiếng của các thần linh đang đứng ở bốn phía để chứng kiến buổi lễ.

Tôi không thể nhớ đến những người bạn Thượng của chúng ta ở B’su Danglu, những người bạn Thượng thường hay đi qua Phương Bối để hái rau rịa. Rau rịa là một thứ rau rừng ăn rất ngon; người thượng nào cũng ưa thích. Thứ cây này có rất nhiều ở Phương Bối, nhất là trong khu rừng ở phía Tây Nam. Ta chỉ có thể hái được những đọt lá non mầu hồng tím. Lá rịa mọc song đôi trên đọt cho nên Lư đặt tên thứ rau này là song diệp thái. Người Thượng có thể bán cho người kinh bất cứ thứ ǵ họ kiếm được ở rừng: tre, mây, phong lan, thịt nai, măng, v.v… nhưng không bao giờ bán lại rau rịa. Họ nói không ăn rau rịa th́ hai chân sẽ nhức mỏi; đi rừng nhắc chân không nổi. Tôi chắc thứ rau ấy có được tính trừ được tê thấp, hay ǵ đó. Bác Đại Hà nói những người mất ngủ nếu ăn rau rịa th́ sẽ ngủ được. Chúng ta ai cũng thấy điều đó là đúng, và lâu lâu lại đi vào rừng đi hái thứ rau quư giá đó về để cho d́ Tâm Huệ nấu canh. Những người bạn Thượng không nấu canh rau rịa theo kiểu d́ Tâm Huệ. Họ đem rau rịa giă nát ra, rồi trộn với ít muối. Xong họ đổ thêm nước và đun sôi lên. Thế là họ có món ăn mà họ ưa thích nhất. Có một bữa Phượng từ Saigon lên ở lại, không nhận mặt được rau rịa cho nên hái nhầm những đọt lá không phải là rau rịa. Ăn món canh rau rịa chiều hôm ấy ai cũng thấy say say. Và chúng ta lại có dịp chế riễu cái cô botaniste hiền hậu đó.

Thỉnh thoảng gặp những người Thượng đi ngang Phương Bối, chúng ta hay ra mời mọc họ vào chơi uống nước. Những người thượng như thế ít nhiều cũng nói được tiếng Kinh. C̣n tiếng Thượng th́ chúng ta chỉ biết một vài câu xă giao mà thôi. Bác Đại Hà nói tiếng Thượng thật giỏi, nhưng không có dịp dạy chúng ta. Tôi đă kiếm được một tập tự điển Thượng Kinh Kinh Thượng in bằng ronéo, nhưng cũng chưa có dịp thuận lợi để học. Tập tự điển ấy, tôi nhớ c̣n để ở hộc tủ bên trái trong thư viện, Nguyên Hưng.

Trong chúng ta, ai cũng có nhiều cảm t́nh với người Thượng. Họ chất phát và thực thà, cho nên nhiều khi bị lợi dụng. Nhưng, càng bị lợi dụng họ lại càng khôn hơn lên, và bây giờ đây đă có những người Thượng mà tôi tưởng không ai c̣n có thể lợi dụng được nữa.

Người thượng có sức chịu đựng rất dẻo dai. Thân thể họ có nhiều năng lực kháng độc hơn chúng ta, và những điều chúng ta làm gọi là để mà “giữ vệ sinh” ấy, người Thượng không hề làm, hoặc không cần làm. Họ ít khi ốm đau vặt, và nếu bị ốm th́ là bị ốm nặng mà thôi. Mà một khi đă ốm nặng là khó ḷng qua khỏi. Có lần tôi gặp một gia đ́nh người Thượng cơng một người ốm đi ngang Phương Bối. Người này đă già, và chân tay gầy tong teo như những cây sậy. Hỏi ra th́ người này ốm già, chứ không phải là ốm bệnh. Ông ta sắp chết, không phải v́ tật bệnh ǵ, mà chỉ v́ già. Biết rằng ông ta sắp chết cho nên gia đ́nh ông ta cơng về nơi mà ông ta sẽ nằm chết để chết.

Có một lần khác tôi trông thấy một người đàn bà Thượng tắm cho con trong một ḍng suối. Tôi rùng ḿnh. Đứa bé chỉ vào khoảng hai tuổi, tôi phải mặc áo ấm, thế mà đứa bé chịu đựng được, không hề kêu khóc. Tôi biết là đứa bé nào ở thành phố mà cho về tắm dưới suối kia theo kiểu người đàn bà Thượng th́ cũng ít nhất là bị sưng phổi. Da thịt của hai mẹ con h́nh như bằng đồng th́ phải. D́ Tâm Huệ c̣n nói rằng người Thượng c̣n tắm nước mát lạnh cho cả những đứa bé sơ sinh nữa. Người ta nhúng những đứa bé xuống nước vài lần. Những đứa nào chịu được th́ sẽ sống mạnh khỏe. Những đứa nào không chịu được th́ sẽ chết. Không biết điều này có thực không. Nếu thực th́ ta có thể có thêm một lư do để hiểu tại sao dân số Thượng hầu như không tăng không giảm.

Nguyên Hưng có nhớ một buổi chiều cùng với bác Đại Hà trồng bạch mai trước sân, chúng ta đón một đoàn người Thượng đi ngang Phương Bối hay không? họ mang cung tên, trong đó có những mũi tên tẩm thuốc độc. Chúng ta đă ngừng tay và nói chuyện với họ, qua tài nói tiếng Thượng của bác Đại Hà. Lần đầu tiên tôi được mân mê trong tay những mũi tên có tẩm thuốc độc. Bác Đại Hà cắt nghĩa về cái chất vàng vàng ở đầu mũi tên đó. Để chứng kiến tài nghệ của những người Thượng, Lư yêu cầu họ bắn một mũi tên lên cành cây cong ở khu rừng trước mặt. Bác Đại Hà thông ngôn xong, họ nhận lời ngay một người trong đoàn lấy ra một mũi tên - không có thuốc độc - và lắp vào cung. Tiếng giật của giây cung và tiếng mũi tên xé gió đi tới làm cho tôi có cảm nghỉ rằng mũi tên thế nào cũng đi lạc. Nhưng không, sau một âm thanh khô cứng và bén nhọn, tất cả chúng ta đều reo mừng khi thấy mũi tên đă cắm trên cành cây cong, thân tên vẫn c̣n rung rung.

Đối với chúng ta, đoàn người Thượng hôm ấy là một đoàn người Thượng có phong thái hơn cả, và có tính cách Thượng hơn cả. Một đoàn người như thế th́ đi bất cứ khu rừng nào cũng không c̣n phải sợ hăi ǵ nữa. Chắc lúc ấy Triều Quang đang tưởng tượng trong óc những lúc đoàn người này gặp cọp giữa rừng và h́nh dung ra những trận ác chiến ghê gớm giữa người và cọp. Quang hỏi: “Khi gặp cọp trong rừng các ông làm ǵ?” và đợi nghe những bí thuật, những chiến lược đặc biệt của người Thượng để đối phó với cọp. Bác Đại Hà vừa thông ngôn xong th́ câu trả lời bằng tiếng Thượng của người vừa bắn mũi tên trổ tài cũng tới ngay, và rất ngắn. Bác Đại Hà dịch lại: “Khi gặp cọp th́ chúng tôi… chạy.” Tất cả chúng ta đều rũ ra cười, phá lên cười, ôm bụng mà cười v́ không có ai chờ đợi một câu trả lời như thế, có lẽ trừ bác Đại Hà, người thông hiểu về đời sống của người Thượng hơn hết. Những người khách Thượng ngơ ngác không biết chúng tôi cười v́ duyên cớ nào. Họ đă trả lời một cách giản dị và thành thực. Điều đó không có ǵ đáng cho là khó hiểu hay buồn cười cả. Họ không ngờ chúng tôi cười chỉ v́ đă tưởng tượng nhiều quá trong óc chúng tôi về những trận ác chiến với cọp.

Bác Đại Hà cắt nghĩa: “Cọp ở miền này không có ư hại người, không hay giết người ăn thịt. V́ hươu nai và các thú rừng rất nhiều, rừng không nghèo như ở miền rừng Quảng B́nh, Quảng Trị. Cọp chỉ xông vào vồ người hoặc kịch chiến với người khi nào cọp bị dồn vào một thế bí. V́ vậy gặp cọp trong rừng th́ chỉ cần tránh ra khỏi con đường cọp đi, thế là yên. Chạy có nghĩa là tránh đừng gặp mặt cọp trên đường cọp đi”.

Tuệ cười đến chảy nước mắt, phải lấy khăn lau. May là chúng tôi gặp những người Thượng chất phát cho nên chúng tôi mới có thể cười thẳng thắng như vậy mà không sao, chứ gặp những người dưới phố mà cười như thế th́ chắc là phải có gây gổ với nhau rồi. Muốn tránh sự gây gổ th́ phải bóp bụng lại, đừng cười. Mà làm sao có thể nín cười trong một trường hợp như thế, hả Nguyên Hưng.

Có một hôm, anh Phương con d́ Tâm Huệ một ḿnh với chiếc xe đạp cũ leo theo con đường ṃn để vào Phương Bối. Qua rừng Tham Thiền chưa được mười thước, anh thấy một ông Ba Mươi rất to lớn nằm ngay giữa đường, xoay lưng về phía anh đang mơ mộng nh́n về giải núi xa xa trước mặt. Thật là bất thần. Không biết là nếu ở vào trường hợp của Phương, Nguyên Hưng hay tôi có chết khiếp đi không chứ theo lời Phương kể lại hôm đó th́ Phương thấy lạnh hết xương sống. Ông Ba Mươi vẫn nằm đó, như không hay không biết, chi cách Phương có ba bước. Quay xe đạp chạy trốn là một điều nguy hiểm v́ Phương biết nếu ông Ba Mươi nghe tiếng động quay lại, ông ta sẽ vồ ngay Phương. Thật là tiến thối lưỡng nan. Phương liền thi hành kế sách làm cho ông Ba Mươi giật ḿnh để ông ta phóng vào rừng. Cậu ta liệng chiếc xe đạp ngay sau lưng con cọp một cái rầm vừa la “ối trời ôi, ối trời ôi” vang cả rừng, tôi giật ḿnh t́m ra tới chỗ Phương. Lúc ấy th́ ông Ba Mươi đă đi rồi, và Phương ngất xỉu giữa đường với chiếc xe đạp. Th́ ra nghe tiếng rầm của chiếc xe đạp và tiếng ḥ hét của Phương ông Ba Mươi không “giật ḿnh phóng vào rừng” như Phương dự tưởng. Ông ta từ từ đứng dậy, không thèm ngoái lại, và uể oải đi từng bước vào rừng. Tôi ra, gặp một anh Phương xám xanh như gà cắt tiết. Tôi vội gọi d́ Tâm Huệ và chúng tôi d́u Phương vào. Suốt ba ngày, Phương chưa lấy lại đủ ba hồn, bảy vía.

Nguyên Hưng ơi cũng là may ở B’su Danglu cọp không ăn thịt người nên mấy lần gặp cọp chúng ta cũng chẳng bị hề hấn chi. Ngày xưa có người đành ḷng lên ở chỗ nhiều thú dữ để dù rằng có bị thú dữ ăn thịt đi nữa th́ cũng không đau khổ bằng sống dưới một sự cai trị hà khắc nhiều khốn đốn. Phương Bối tuy rằng không phải là một nơi đầy thú dữ, một nơi sơn lam chướng khí độc địa - trái lại; là một nơi rất đẹp, rất yên tĩnh, rất kỳ thú - nhưng c̣n chúng ta, cái ǵ đă khiến chúng ta bỏ thành thị bỏ xóm làng mà lên đây? chúng ta nhất là Lư và tôi, không được chế độ chấp nhận. Mà không được chế độ chấp nhận là bởi v́ chúng tôi thao thức muốn nói những điều mà chúng tôi cho là sự thực. Nguyên Hưng ơi, tôi thấy rằng cái Chân hoặc cái Thiện bao giờ cũng phải đi với cái Cường nữa th́ mới có thể có chỗ đứng trên trái đất này. Ngày xưa học thơ ngụ ngôn của La Fontaine, tôi rất bất b́nh khi nghe nói rằng lư luận của kẻ mạnh là lư luận hay hơn cả. La raison du phus fort est toujours la meilleure! Tôi giận ứ cả cổ. Tôi ghét con chó sói lắm. Tôi vẫn tin rằng câu ấy là một câu nói mĩa mai, chớ không phải là một chân lư. Nhưng mà đă mấy mươi năm qua rồi, cuộc đời đă bao nhiêu lần cho tôi biết rằng đó là một chân lư, dù là một chân lư đáng ghét. Chân lư mà không có sức mạnh th́ không có chỗ đứng. Sức mạnh không hẳn là bạo lực. Nhưng mà anh phải mạnh. Chúng ta chỉ có những cây bút nhỏ, làm sao chúng tôi chống chọi lại với một chế độ, hả Nguyên Hưng.

Và tất cả chúng ta, nào Mẫn, nào Hiện, nào Hương, nào Tuệ, nào Hưng, và bao nhiêu người khác nữa cũng không t́m được chỗ đứng của chúng ta trong tổ chức Phật giáo. Chúng ta đă mang tiếng là những người gieo rắc tư tưởng phản giáo lư truyền thống, những người quá khích, những người chỉ biết phá hoại. Chế độ không dung được ta mà truyền thống cũng không dung được ta. Cổ họng chúng ta bé bỏng. Nói chuyện thống nhất Phật giáo, nói chuyện hiện đại hóa lễ nhạc, giáo dục, hoằng pháp, nói chuyện về một nền Phật giáo nhân bản và dân tộc, những điều ấy chúng ta đă đeo đuổi từ gần tám năm nay. Những hạt giống đă gieo, một cách vô cùng khó khăn. Trong khi chờ đợi, chúng ta gặp toàn những giông tố, những ghen ghét, những thành tŕ cố chấp hủ bại, tuy nhiên chúng ta không nản chí, không thất vọng. Một số hạt giống đă lưa thưa mọc lên. Cùng với sự bất măn chế độ, ư thức về một nền Phật giáo dân tộc dần dần tượng h́nh. Nguyên Hưng không ngờ được rằng ảnh hưởng của những tư tưởng kia đă sâu đậm như thế nào ở miền Trung. Một buổi chiều đi với Như Huệ và Như Vạn trong một xóm nghèo ở Quảng Nam, tôi nghe tiếng vơng kẽo kẹt ḥa theo tiếng ru em, những câu ca dao của Tâm Kiên! Tôi muốn chảy nước mắt.

Có lẽ là chúng ta không nên ngạc nhiên quá, và không nên đ̣i hỏi quá. Sự vùng dậy để thoát xác của một nền văn hóa không phải là một cái ǵ có thể thực hiện một cách dễ dàng và êm đềm. Sự dễ dàng và êm đềm đó chi có thể đi đôi với tinh thần nô dịch. Mà đă là nô dịch th́ văn hóa không c̣n là văn hóa nữa, mà chỉ c̣n là một dụng cụ. Những mâu thuẫn và khổ đau gây nên do sự va chạm giữa cái cũ và cái mới vốn là những ǵ không tránh được. Chỉ có một con đường phải đi - con đường của sự tranh đấu bền bỉ và gian khổ.

Nguyên Hưng ơi, v́ nghĩ như thế nên chúng ta đă làm việc tích cực trong thời gian ở Phương Bối. Tuy rằng chúng ta có những buổi thám hiểm núi rừng, những ngày cắm trại, những buổi b́nh văn, và tuy rằng tất cả những sinh hoạt ấy đều rất thú vị, chúng ta cũng đă để rất nhiều th́ giờ vào việc học tập, tra cứu, viết lách. Lư thường thức rất khuya trên đống bản thảo. C̣n tôi tuy sức khỏe không cho thức khuya, tôi cũng làm thật nhiều việc. Ngoài sự sưu tầm, viết lách tôi đă khởi thảo bộ Phật Học Từ Điển. Công việc này dỡ dang; trước khi đi, tôi đă giao lại cho một số các bạn trẻ ở Phật học viện Nha Trang tiếp tục. Tôi rất sung sướng nghĩ đến những buổi học nơi nhà Thượng hay ở thư viện. Nguyên Hưng và Thanh Tuệ đă làm việc rất siêng năng. Ngoài những môn học thường nhật, thỉnh thoảng tôi ưa giảng cho Hưng và Tuệ về những đề tại đặc biệt. Tôi chắc Nguyên Hưng c̣n nhớ hôm tôi đem giảng những đoạn trong Cựu Ước. Những cuộc hội thảo xảy ra luôn luôn, một cách tự nhiên và Lư có vẻ hùng biện hơn ai hết. Nói thế chứ nhiều khi tôi cũng hay “bắt nạt” Lư lắm, phải không Nguyên Hưng? Thầy Thanh Từ th́ ít nói, hay cười hiền lành. Tuy vậy thỉnh thoảng chúng tôi cũng bắt thầy điều khiển những buổi hội thảo. Tôi nhớ chó một lần thầy hướng dẫn hội thảo về thiền. Lần này có một nhóm sinh viên Phật tử ở Saigon lên thăm và tham dự.

Triều Quang ít nói trong các buổi hội thảo, nhưng hễ nói th́ nói những điều có thể gây nên những “vấn đề lớn”. Quang rất say mê làm việc ngoài rừng. Cậu ta dọn một khoảng thật đẹp ở khu rừng trước mặt, sửa sang cho thật xinh, và gọi đó là nội cỏ thiên đường. Quang rất thích nuôi một con ḅ, ư định ấy được vài người trong chúng ta tán thành. Tuệ cười nói: “vậy th́ sẽ có sữa nóng uống buổi sáng”. C̣n tôi th́ ngại ông Ba Mươi. Nuôi một con ḅ con tức là mời các ông Ba Mươi tới viếng thăm ban đêm.

Một hôm Quang trông thấy những người Thượng đi ngang, mang theo một con nai nhỏ. Con nai bị trói lại trông rất đáng thương. Quang nhất định mua con nai ấy để nuôi trong nội cỏ thiên đường. Lần này không ai ngăn cản Quang cả. Nhưng con vật, tuy được cởi trói và đối đăi thật tử tế, vẫn không chịu ăn bất cứ một thứ ǵ. Ba bốn hôm liền như vậy. Đến hôm thứ tư, Quang thử cho uống sữa. Con vật thích lắm. Nó uống sữa xong, đi chơi quanh quẩn trong nội cỏ. Nhưng đến sáng mai, không ai t́m thấy nó nữa. Nó đă trở lại núi rừng.

Viết cho Nguyên Hưng đến đây tôi lại nhớ đến Datino, con nai nhỏ bé của bọn Cherrokeesi, Datino lớn như thổi. Đứa trẻ nào cũng ao ước được mang Datino về nhà. Tôi đă đề nghị trả Datino về rừng. Một số các em tỏ vẻ luyến tiếc, nhưng phần lớn đều tán thành.

Nguyên Hưng ơi, mùa hè năm ấy, bao nhiêu việc buồn đă xảy đến cho chúng ta. Chị Diệu Âm ốm nặng phải chở lên điều trị tại bệnh viện của bác sĩ Sohier. Lư bị bắt. Tôi phải trốn về Saigon. Phương Bối bị đe dọa. Tuệ Hưng và tất cả những người ở Phương Bối bị bắt buộc phải rời bỏ Phương Bối để vào trong ấp Chiến Lược. Công an nghi rằng chúng ta đang làm ǵ ở miền núi rừng nên cứ đến Phương Bối để hỏi thăm, ḍ la. Những người công an này lộ liễu lắm bởi v́ trông tướng mạo họ và nghe một vài câu hỏi của họ, ta đă có thể biết ngay rằng họ là công an rồi. Đột nhiên chúng ta mất hết những an tĩnh của chúng ta. Phương Bối bị đe dọa trầm trọng. Chúng ta chứng kiến cảnh thiên đường bị mất dần dần.

Tôi tin rằng không ai trong chúng ta mà không nhớ rơ từng chi tiết của giai đoạn khó khăn ấy. Ba ngày hôm sau Như Hiền báo tin bệnh chị Diệu Âm đă được thuyên giảm trong khi điều trị ở bệnh viện Sohier, chúng ta nhận được tin cấp báo ở Dalat cho biết rằng bệnh t́nh chị trở lại trầm trọng hơn bao giờ hết. Hoảng kinh, Nguyên Hưng và tôi vượt rừng t́m về xa lộ, đón xe ngược Dalat. Từ mười giờ sáng đến bốn giờ chiều chúng ta không đón được một chiếc xe nào cả. Xe đ̣ chiếc nào cũng đầy ăm ắp. Chúng ta đưa tay lên đón theo kiểu auto-stop bất cứ một chiếc xe nào. Chúng ta quên đói, quên mệt, mà chỉ lo lắng. Bốn giờ hơn, may mắn chúng ta đón được xe của một người quen. Xe của Nghĩa. Mừng quá, chúng ta hối thúc Nghĩa chạy thật nhanh. Con đường như dài vô tận. Đến Dalat, Nghĩa đưa chúng ta đến thẳng bệnh viện Sohier. Chị Âm đă tĩnh rồi, và cơn nguy hiểm đă qua rồi. Chị cười yếu ớt. Mắt chị sáng lên khi trông thấy chúng ta.

Chắc Nguyên Hưng cũng nhớ rằng, sau thời gian điều trị ở Dalat, chị đă được chúng ta mang về Saigon, điều trị ở Grall, và sau đó về Huế. Bởi v́ Dalat rét quá, không thích hợp với bệnh của chị. Chị đă lấy lại được sức khỏe trong thời gian ba tháng. Khi tôi ra đi, chị có vẻ tin tưởng và hy vọng. Tôi ngồi bên giường chị, ở Thiên minh, và nói chuyện vói chị về những dự tính cho công việc sau này. Chị hơi mệt, nhưng nụ cười của chị rất tươi. Tôi nói tôi chỉ vắng mặt chín tháng thôi, rồi tôi lại trở về. Mà khi tôi về th́ t́nh h́nh sẽ sáng sủa hơn, chúng ta sẽ làm được nhiều việc hơn. Chị chăm chú nghe tôi nói và sẵn sàng tin nơi những điều tôi nói. Tôi có cảm tưởng rằng trong khi nói chuyện với chị, tôi tưới được thêm những chất liệu của niềm tin trên tâm hồn chị. Tội nghiệp cho chị. Chị mất sau đó không lâu, nghĩa là khoảng ba tháng sau. Lúc ấy tôi ở Princeton. Điện tín do Hoàng Phong ở Huế gửi sang. Tôi bàng hoàng và lặng người đi. Bởi v́ tôi đă tin rằng chị có thể qua khỏi.

Tôi ghi chầm chậm trên tập bản thảo của tôi mấy chữ đơn sơ: thương tiếc chị. Rồi tôi quỳ xuống cầu nguyện cho chị. Giờ chị ra đi chắc chị nghĩ đến chúng ta đến Mai Lâm và đến Phương Bối thân yêu. Rất an ủi cho tôi là lúc chị ra đi, vẫn c̣n có Nguyên Hưng ở Huế. Có cả Thanh Hiện. Như Hiền và Như Liên nữa. Mai mốt tôi về th́ đă không c̣n chị. Bây giờ tôi ước ao ngồi bên tháp chị ở Từ Quang, để nghĩ đến chị, để tâm hồn tôi có thể nói chuyện với chị. Cố nhiên là chị không chết, người như thế làm sao chết được. Chị đă sống một cuộc đời đẹp, hoạt động và giàu tin tưởng. Trong chúng ta, ai cũng mang h́nh bóng của chị. Ta thương xót chị, nhưng ta vẫn có thể nở một nụ cười thương yêu khi nghĩ tới chị. Để tôi kể chuyện hôm vào thăm chị ở nhà thương Grall Saigon. Chiều hôm ấy là chiều cuối năm. Tết năm nay có lẽ buồn nhất ở Phương Bối. Nguyên Hưng đă phải phiêu dạt về Huế rồi, và những người khác cũng đă phải đi mỗi người một ngả, chỉ duy c̣n thầy Thanh Từ, chú Thanh Tuệ và d́ Tâm Huệ là c̣n gan ở lại. Tôi th́ cũng không sợ ǵ, nhưng mọi người ai cũng bắt tôi phải rời Phương Bối cả. Ai cũng lo cho tôi. Tôi phải vào Saigon, và ở lại Trúc Lâm. Độ ấy tôi bắt đầu hướng dẫn cho một số sinh viên các phân khoa thành lập hội Sinh viên Phật tử Việt Nam. Công việc gặp khá nhiều trở lực, từ ngoài đi vào cũng như từ trong đi ra điều này chắc Nguyên Hưng không thấy. Hồi ấy có Khanh, Dương, Chiểu, Phượng, Chi, Nhiên và Cương là những người có thiện chí nhất. Họ biết rất rơ điều ấy. Chiều ba mươi tết đáng lẽ đến dự buổi họp mặt của họ, th́ tôi đi thăm chị Diệu Âm. Tôi nói chuyện và đọc báo xuân cho chị nghe, rồi ở lại với chị cho đến khi giao thừa trở về. Hồi đó người ta cấm đốt pháo, và chắc bây giờ cũng vậy. Tôi thắp những cây nến hồng bên cạnh những chậu hoa tôi mang đến tặng chị. Một giờ khuya, tôi chúc tết chị, và yêu cầu chị đi ngủ trước khi tôi từ giă chị. Một ḿnh tôi đi bộ từ nhà thương Đồn Đất về tới chùa. Giờ này không c̣n xe cộ ǵ nữa cả. Sương xuống, tôi phải trùm vạt áo lên đầu. Tôi dang ngang qua tổng thống phủ, sáng rặc với những hàng bóng điện viền quanh mái nhà, và mĩm cười trước sự kiêu hănh của ngôi nhà. Tôi biết là ngôi chùa gần nhất là chùa Xá Lợi, Và giờ này th́ khách thập phương cũng đă đến lễ bái đông đảo như ở Lăng Ông Bà Chiểu rồi.

Năm tháng sau th́ Lư cũng được chở vào điều trị ở bệnh viện Cơ Đốc Phú Nhận. Chứng bệnh nhức đầu ghê gớm của Lư ngày xưa đă trở lại. Lư là một người có nghị lực, thế mà khi đau quá, Lư phải hét như một người điên và nước mắt của Lư chảy ràn rụa. Nếu Lư không bị bắt th́ chắc chứng bệnh cũ không đến nỗi trở lại như thế đâu. Một hôm có người khách quen, thầy Đức Nhuận, từ Saigon lên thăm Phương Bối, Lư và Nguyên Hưng sau khi đưa khách vượt rừng ra xa lộ đă vui chân đi bảy cây số đường bộ về tới Bảo Lộc. Hai người đang đi mua ít vật dụng trong chợ, th́ người công an tới đưa giấy tờ cho Lư xem và mời Lư về ty. Thế là Nguyên Hưng cũng phải đi theo Lư về ty công an. Nguyên Hưng nhất định không ra về nếu Lư không về. Họ bảo Lư khai, Lư đ̣i giấy bút. Thế là Lư ngồi viết cho đến chiều. Viết cho đến chiều hết giấy, Lư xin thêm giấy nữa. Họ đưa Lư và Hưng về chùa Bảo Lộc. Rồi sáng mai, họ trở lại mời Lư vào ty. Có lẽ để viết thêm.

Lúc ấy đang loay hoay với mấy cái danh từ Phật học, tôi thấy Nguyên Hưng về. Sau khi kể lại mọi chuyện, Nguyên Hưng đưa cho tôi mảnh giấy của Lưviết: nếu tôi không về nữa th́ thầy sẽ viết cho hết cuốn sách giùm tôi. Tôi cảm động quá. Mọi người ở Phương Bối ai cũng bảo tôi nên đi Saigon để tránh. Tôi có làm ǵ mà phải đi tránh. Có lẽ chúng tôi bị họ để ư chăng. Hoặc giả họ ghét và muốn trả thù v́ chúng tôi đă viết lách chống báng họ chăng. Cái thời đại này, hễ ghét ai th́ cứ gán cho họ tội làm “Việt cộng” dù họ là người quốc gia. Ở đây thấp cổ bé miệng làm sao nói được cho ai nghe. Nghĩ như thế tôi liền thu xếp về Saigon xem ra có thể giúp ǵ được cho Lư. Tôi dặn Tuệ nếu tối nay chúng không thả Lư th́ đánh điện cho tôi biết. C̣n nếu chúng thả Lư th́ cũng đánh điện cho tôi biết.

Đợi măi cho đến trưa hôm sau nữa điện tín mới về. Nội dung bức điện như sau: “Xin cho biết bệnh t́nh chị Diệu Âm có thuyên giảm không”. Tôi mừng rỡ v́ có nghĩa là chúng đă buông Lư. Mà tôi đă dặn nếu Lư được ra th́ phải cho Lư về Saigon ngay.

Lư về Saigon được ít lâu th́ chứng nhức đầu tái phát. Hồi ấy, Nguyên Hưng đă ở Huế rồi. Tôi phải đưa Lư vào bệnh viện và phú thác cho Phượng chăm lo cho Lư. Cũng may mà Lư b́nh phục sau đó gần một tháng trời. Hôm tôi ra đi, Lư rất băn khoăn. Chính Lư cũng như mọi người đă khuyên tôi nên đi. Ở nhà cũng không làm được ǵ, Lư và cả Nguyên Hưng cũng nói như vậy. Lư có mua cho tôi một cuốn sách. Măi đến khi sang bên này tôi mới mở ra xem. Trang cuối có hai gịng chữ của Lư:

“Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát

th́ t́m em nơi tận đáy ḷng anh”.

 

Khi tôi phát giác ra hai câu ấy, tôi giật ḿnh và lo sợ. T́nh thế càng lúc càng căng thẳng. Chế độ đă tàn bạo nên bao nhiêu bất măn và oán thù. Phương Bối đă coi như vượt khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Lư đă tiên đoán một cuộc đổ vỡ ghê gớm. Tôi rùng ḿnh, nghĩ đến ngày về, và tôi cầu nguyện cho những người thân yêu, cầu nguyện cho tất cả chúng ta.

Tuệ đă lại đi dạy học lại và chỉ về Phương Bối vài lần trong một tuần. Ấp chiến lược được thiết lập bên xa lộ. Ban đầu thầy Thanh Từ, Tuệ và d́ Tâm Huệ c̣n nán ở lại, nhưng sau đó ít lâu, mỗi người cũng phải tản mát một nẻo. Thầy Thanh Từ cũng đă về Phú Lâm lâu rồi. Thanh Tuệ và d́ Tâm Huệ cũng phải tạm trú ở Đại Hà thỉnh thoảng mới vào thăm Phương Bối. Tội nghiệp cho Thiền Duyệt Thất. Tội nghiệp cho nhà Thượng. Tội nghiệp cho từng lá cây ngọn cỏ.

Tôi nhớ trước ngày đi, tôi có lên Phương Bối thăm một cách đột ngột. Tôi ngủ lại một đêm. Buổi sáng hôm ấy trời đầy sương lạnh lẽo. Tôi giă từ thầy Thanh Từ, giă từ Phương Bối, giă từ những cuốn sách của tôi, tôi để lại cho thầy Thanh Từ một bài ngũ ngôn, như một bài chúc tụng như sau:

“Gối nhẹ mây đầu núi

Nghe gió thoảng hương trà

Thiền duyệt tâm bất động

Rừng cây dâng hương hoa

Một sáng ta thức dậy

Sương lam phủ mái nhà

Hồn nhiên cười tiễn biệt

Chim chóc vang lời ca

Đời đi về muôn lối

Quan san rộng hăi hà

Chút lửa hồng bếp cũ

Ấm áp bóng chiều sa

Đời vô thường vô ngă

Người khẩu Phật tâm xà

Niềm tin c̣n gửi gắm

Ta vui ḷng đi xa

Thế sự như đại mộng

Quên tuế nguyệt ta đà

Tan biến ḍng sinh tử

Duy c̣n Ngươi với Ta.

 

Thầy Thanh Từ xem xong rất cảm động. Tôi nói: “Tôi đi rồi lại về”. Và ở bên này có rất nh́êu khi tôi nhớ thầy, một hôm đọc Ngữ lục tôi thấy có câu:

Trương kiến kha kha tiếu

Viên lâm lạc diệp đa.

Và bất giác nhớ h́nh ảnh Phương Bối quá. Tôi dịch hai câu ấy ra như sau:

“Gặp nhau cười ha hả

Lá rụng ngập vườn rừng”

Có phải là khi nào đi từ cầu Mai đến đồi Thượng mà gặp nhau, chúng ta cũng thấy như thế phải không Nguyên Hưng?

Nhưng hết rồi, hết rồi, Phương Bối đă lọt ra khỏi tầm tay của chúng ta rồi. Tội nghiệp cho từng gốc cây, từng bụi cỏ, từng lối ṃn. Một người hiền ḥa như thầy Thanh Từ mà cũng không được ngồi yên để tọa thiền trong ḷng Phương Bối nữa! Chúng ta c̣n lại ǵ cho ngày mai? Mỗi người một ngả. Phương Bối đă tủi thân đến mức độ nào? Chiếc nhà Thượng có đứng vững được trước gió mưa cho đến khi chúng ta trở về hay không?

Nhưng mà Nguyên Hưng, không biết sao tôi cứ tin rằng chúng ta không bao giờ mất Phương Bối. Phương Bối vẫn c̣n đó, vẫn chịu đựng biệt ly cũng như tất cả chúng ta hiện đang mỗi người một nẻo, cũng chịu biệt ly. Phương Bối đă trở nên thực tại trong ḷng người. Phương Bối đă chiếm chỗ linh thiêng trong ḷng chúng ta. Ở bất cứ phương trời nào, nghe đến Phương Bối là ta cảm động. Bữa trước viết cho Mẫn tôi nói: “dù cho phong ba băo táp có đánh bạt chúng ta mỗi người một ngă th́ niềm tin vẫn đưa chúng ta về trả lại cho nhau”.

Nguyên Hưng, Medford đă rét rồi. Bọn trẻ con đă về hết. Rừng Medford trở nên im lặng thêm. Tôi đă để nhiều th́ giờ nghĩ đến Phương Bối. Và càng nghĩ tới Phương Bối tôi lại thấy tâm hồn tôi êm dịu hơn lên, giàu có hơn lên. Tôi tin giờ này ở khắp nơi những con chim của Phương Bối đều đang nghĩ về Phương Bối, rừng Medford đă cho tôi sống những giờ thanh tịnh. Mai mốt về đô thị, có lẽ trên h́nh bóng Phương Bối, tôi cũng sẽ thấp thoáng bóng của Medford

 

VI 

Hiện tôi đang ngồi ở Brown Hall viết cho Nguyên Hưng, Đại học Princeton hiện giờ vắng vẻ lắm: ngoại trừ năm bảy người, tất cả đều đă về nhà ăn tết và lễ Giáng sinh. Ngoài trời tuyết đang rơi và Brown Hall ngôi nhà cũ kỹ và thân yêu này của tôi đang ch́m trong yên lặng tuyệt đối của một buổi chiều cuối năm.

Tôi về đây ngày hôm kia, tức là hôm hai mươi mốt tháng chạp. Suốt một mùa Thu và gần hết mùa Đông tôi không viết tiếp được cho Nguyên Hưng. Thực ra tôi không bận rộn ǵ lắm để đến nỗi không có th́ giờ viết cho em. Nhưng tôi không thể viết cho Nguyên Hưng chỉ một vài câu thăm hỏi. Ngồi viết cho Nguyên Hưng, tôi cần phải có một ít không gian và một ít thời gian, như người sắp sửa đi chơi dă cầu vậy mà. Tôi không muốn những công việc vụn vặt tới làm gián đoạn câu chuyện của chúng ta. Tôi có trước mặt đến ba tuần lễ và cả Princeton rộng lớn sáng sủa. Có lẽ là đó là món quà Giáng sinh quư nhất mà cái xứ này có thể tặng cho tôi. Nói cho đúng th́ trong những ngày vừa qua, tôi cũng có bận bịu thật. Ư nghĩ được rời bỏ tất cả những bận rộn của ḿnh trong ba tuần lễ về Princeton làm tôi sung sướng quá. Buổi sáng ngày hai mươi mốt sửa soạn hành trang xong, tôi đến thăm một vài người bạn, trong đó có giáo sư Friess, giáo sư Cerbu rồi ghé về anh Bính và chị Bạch Lan để ẵm cháu Tâm Tuyền một lát. Lâu nay bận rộn tôi đă không có những th́ giờ để làm việc ấy. Rồi tôi đến văn pḥng của tôi trong phân khoa để xem có thư từ ǵ không. Ghé trụ sở th́ thấy cô Mirriam, thư kư, đang sửa soạn bữa tiệc trà cuối năm cho ban giảng huấn, Mirriam nói “Ông khoa trưởng dặn mời thầy chiều nay đến”. Tôi nói: “Chiều nay tôi đi Princeton rồi”. Cô nói: “Tiếc quá; thế th́ bây giờ mời thầy ăn trước một miếng bánh vậy”. Rồi cô cắt bánh cho tôi: bánh và rượu đỏ để dành cho bữa tiệc trà buổi chiều. Tôi vừa đi lại trong pḥng vừa ăn bánh vừa xuưt xoa v́ lạnh. Thực ra trong pḥng khá ấm, nhưng v́ ở ngoài mới vào cho nên tôi c̣n run. Mirriam nói: “Thôi thầy uống tí rượu cho ấm nhé”. Tôi nói “Tôi chẳng sợ ǵ rượu, nhưng uống vào vài giọt th́ đỏ mặt và cô sẽ không nh́n ra được tôi đâu”. Tôi gọi điện thoại nhờ một người bạn đem xe tới đưa tôi ra bến xe bus.

Bến xe đông thật là đông. Thiên hạ như kiến. Lấy vé xong tôi phải đứng nối đuôi gần nửa giờ đồng hồ mới lên được xe. Bên trong xe, nhờ có máy phóng nhiệt nên ấm lắm. Thôi giă từ thành phố rộn rịp.

Đây là lần thứ hai tôi ngồi trên một chiếc xe bus về Priceton. Xe phải đi gần hai giờ trên xa lộ New Jersey. Sông, hồ, suối, tất cả đều đông đặc. Khói sương che lấp những vùng xa. Khi về tới New Bruhgswich th́ tuyết bắt đầu rơi. Mọi người trên xe ai cũng yên lặng. Ai cũng nghĩ đến bếp lửa gia đ́nh đêm Giáng sinh. Ai cũng nghĩ đến đoàn tụ. Người nào cũng mang theo những gói quà xinh thắt giải đỏ, những gói quà Giáng sinh cho con, cháu, anh, em, cha, mẹ, bà con. Ngoài xe, tuyết rơi thật nhẹ nhàng, thật êm đềm, không có một tiếng động. Chỉ có tiếng động cơ của xe đều đều, nho nhỏ, trên xa lộ êm đềm. Tôi cũng bị ảnh hưởng cái nao nao của những ngày cuối năm ở đây. Nghĩ đến những thúng gạo nếp trắng tinh và đầy ngọn quê nhà. Những câu đối giấy hồng điều mới dán trước cửa. Những trái dưa hấu tṛn và đẹp. Những cành đào, những cành mai góc chợ, buổi chiều. Những anh xích lô vui vẻ v́ luôn luôn có khách. Và những người lính ở biên giới, ở núi rừng, đêm khuya nghe tiếng súng nhớ nhà.

Xe đỗ ở Priceton. Tôi bước xuống, hai tay xách hai cái xắc đi trong mùa mưa tuyết để về Brown Hall, nơi mà tôi đă ở trọn suốt một năm ngoái. Campus buồn thật đẹp. Tuyết rơi phơi phới. Tuyết rơi trên đầu, trên cổ, trên áo tôi. Mặc đủ thứ áo, đội mũ, quàng khăn, mang găng, thế mà tôi vẫn thấy rét. Campus vắng teo. Tôi đến Brown Hall chẳng thấy ai, ngoại trừ Jack. Tôi đi t́m Saphir, người bạn Ấn Độ dễ thương của tôi, để lấy ch́a khóa pḥng 115. Và tôi sung sướng cởi áo, soạn những đồ vật tôi mang theo trong hai cái xắc và bày biện trong pḥng. Tôi mở hết máy phóng nhiệt, làm giường, và ra đứng trước cửa sổ ngắm tuyết rơi trên Campus. Được về Princeton tôi sung sướng quá và cảm thấy tâm hồn thật êm dịu.

Chiều hôm qua tôi đi chợ với Saphir trong chiếc Wolkswagen nhỏ xíu và cũ kỹ của anh. Pḥng ăn của trường đại học đóng cửa; cả chiếc quán bán hàng cũng vậy. V́ vậy những người ở lại trường phải ra ăn ngoài phố. Tuy vậy cái quán bán hàng gần sát Campus center vẫn sẵn sàng để cho những người ở lại nấu ăn. Tôi và Saphir mua gạo, bắp cải, sữa và nhiều thức ăn khác. Buổi chiều chúng tôi nấu cơm và ngồi ăn trong quán.

Trời rét ghê lắm. Nguyên Hưng. Hồi sáng không có tuyết rơi nhưng tôi cũng không dám đi ra dạo chơi ngoài Campus. Bài phát thanh WPRT dặn: Sáng nay lạnh 18 độ dưới không độ, nếu không có việc ǵ cần kíp lắm th́ không nên đi ra ngoài. Cho nên từ sáng đến giờ tôi cứ ở măi trong pḥng. Buổi trưa Saphir đem đến cho tôi một ít thức ăn khô và một b́nh sữa. Chiều nay có tuyết, chắc rằng bớt lạnh. Thế nào tôi và Saphir cũng tới Campus center để nấu vài món nóng ăn cho ấm bụng. Campus center cũng gần đây thôi, Nguyên Hưng. Xa Brown Hall chừng ba bốn mươi thước.

Mùa Đông sẽ c̣n kéo dài măi đến cuối tháng ba. Tuyết rơi th́ đẹp thật nhưng ba bốn ngày sau lại trông rất xấu xí. Bởi v́ tuyết đă đóng cứng lại và trộn lẫn với đất và bùn rồi. Nhưng một miền xơ xác đầy rác rến và vũng bùn như các xóm nghèo ở xứ ta mà sau một đêm tuyết rơi cũng sẽ trở thành diễm lệ không cùng cho xem Nguyên Hưng ạ. Nhưng mà thôi, quê hương ta tuy không có tuyết nhưng cũng có những cảnh đẹp mà các xứ như xứ nầy không có được: những thôn quê có từng hàng dừa in bóng trên các ḍng sông, những thành phố sáng chói hoa phượng vĩ… Mùa Đông ở đây có khi quá dài quá thành thử ai cũng trông ngóng cho nó đi qua để cho mùa xuân trở về. Sau những đêm tuyết rơi nhiều quá, buổi sáng xe cộ không thể lưu thông được. Xe xúc tuyết phải được huy động gấp để dọn đường. Trời rét quá khiến tuyết không tan và phải đóng thành băng: những tai nạn găy tay găy chân v́ trượt ngă trên những nẻo đường trơn v́ băng không phải là hiếm. Đi trên những con đường như thế c̣n khó chịu và gặp nguy hiểm gấp mấy lần đi ở các con đường vũng nước hoặc lầy lội nữa, Nguyên Hưng. Những bữa nhiều tuyết, tôi phải mang thêm một đôi ủng cao su ra ngoài đôi giầy thường nhật nữa. Bởi v́ nếu chân mà bị ướt sũng th́ thế nào khi về nhà cũng bị cảm mạo. Ở bên này mà ốm th́ thật là khổ, không có lấy một người thân săn sóc. Vậy cho nên tôi phải giữ ǵn cẩn thận lắm, Nguyên Hưng.

Ngoài mầu tuyết tươi sáng, mùa Đông chỉ c̣n mang có một màu xám buồn tẻ. Những thảm có xanh không c̣n nữa. Cây cối trơ những cành gầy không lá ra mà chịu đựng. Sức sống của đất trời như bị bóp chẹt lại. Nguyên Hưng, cái hồi cuối thu, khi lá đă rụng hết rồi mà trời quả chưa có ǵ là lạnh ấy, một hôm ngồi nh́n ra những hàng cây trụi lá bỗng nhiên tôi thấy cảm thương dâng ngập tâm hồn. Tôi thấy như là cây cối cũng ngang hàng với những sinh vật có linh hồn, có hiểu biết, có lo lắng, có chuẩn bị. Lá rụng dần, rụng dần cho đến khi cành hoàn toàn trơ trụi. Mới ngày nào đây tàn lá xanh của chúng làm tươi cả một vùng và che lấp những dăy nhà phía sau chúng: bây giờ chúng đứng trơ trụi và khổ hạnh sẵn sàng chờ đợi và chịu đựng một mùa Đông băng giá dài đặc sẽ đến. Những chiếc cành xương xẩu của chúng in rơ trên nền trời xám, nền trời mà trong suốt mùa Hạ đă hoàn toàn bị che lấp sau tàn lá xanh. Một mùa Đông băng giá sẽ tới và không thể dung tha những ǵ non nớt, bé bỏng và phù hoa. Phải vượt qua những giai đoạn c̣n non nớt bé bỏng phù hoa đi để mà chịu đựng. Phải già dặn, phải cô độc, phải sẵn sàng nghiến răng mà chịu đựng. Nh́n những hàng cây trụi lá đứng đợi chờ một cách anh dũng và bền bỉ mùa Đông sẽ tới, tôi cảm nhận được tất cả ư nghĩa của bài học về sự chuẩn bị chịu đựng. Nhớ lại hai câu thơ của Lư, tôi lại rùng ḿnh. Đất nước chúng ta thế nào rồi cũng phải trải qua một cơn bảo táp tàn khốc. Chế độ đă gây nên quá nhiều bất công và áp bức, đă sử dụng tiền bạc và bạo lực để thực hiện những tham vọng của ḿnh. Bất măn và căm thù càng lúc càng tăng và hiện những phần tử v́ phẩn uất gia nhập hàng ngủ Mặt trận giải phóng Miền Nam để chống đối đă không phải là ít. Chất liệu bất công, tàn ác và thối nát đă nuôi dưỡng và làm cho lực lượng chống đối càng lúc càng mạnh. Nay th́ chính phủ đă ban bố t́nh trạng khẩn trương rồi. Chín năm trời, Nguyên Hưng ơi, đă chín năm trời rồi mà rốt cuộc chúng ta lai đi vào t́nh trạng này. Một cơ hội tốt đă mất. Sóng gió sẽ đến bất cứ vào lúc nào. chúng ta không thể vô tâm vô tư được. Phải bắt chước những hàng cây kia, rụng hết tất cả mọi lá phù hoa đi để sửa soạn chịu đựng bảo táp, mưa gió, tuyết sương. Chúng ta không thể nào c̣n bé bỏng và non nớt ǵ nữa. Chúng ta phải già dặn, phải khổ hạnh, phải vững chăi để mà vượt qua cơn thử thách sắp đến.

Nguyên Hưng, trong những tuần lễ theo sau ngày mà tôi học được bài học của những hàng cây trụi lá áy, ban đêm tôi thường có những ác mộng kỳ lạ. Để tôi kể cho Nguyên Hưng nghe vài giấc mộng mà bây giờ nghĩ đến tôi c̣n rùng ḿnh. Hai giấc mộng mà tôi c̣n nhớ rơ. Giấc mộng sau với giấc mộng trước gần như là cách xa có một phút, trong cùng một giấc ngủ.

Tối đó tôi bị cảm, và v́ đă uống thuốc rồi mà không bớt nên tôi nhờ Steve cạo gió cho tôi bằng Vicks, thứ dầu cù là địa phương. Thật ra Steve chỉ biết xoa thôi, nhưng tôi dạy cho chú ta dùng một cái th́a để cạo gió theo kiểu Miền Nam, cho đến khi nào lưng tôi đỏ lên mới thôi. V́ có như thế tôi mới thấy ấm áp thật sự và cảm giác ớn lạnh sau lưng mới tan biến đi. Steve cho đó là một điều kỳ quặc, bởi v́ bên này không ai chữa bệnh mà phải làm cho da thịt bầm tím như thế bao giờ. Tuy vậy Steve vẫn ch́u theo ư tôi. Ấm lưng rồi, tôi mới uống thêm một viên Corricidin nữa, với nước nóng, và đắp chăn lại, chai dầu cù là và b́nh nước vẫn để đầu giường. Đêm đó, trong giấc mộng thứ nhất, tôi thấy một người em thân thuộc của tôi, đứng ở gần cửa ra vào của một căn pḥng rất rộng răi. Xa tôi đến chừng mười mấy thước. Người em đó là ai, quả thật tôi không biết rơ. Tôi chỉ biết một cách rất mơ hồ rằng đó là người tôi yêu mến nhất, c̣n thơ dại, c̣n yếu đuối và cần phải bảo vệ. Bây giờ nếu ngồi kỹ lại để xét từng người quen thuộc th́ tôi cũng không thể đồng người trong giấc mộng ấy với ai cả. Với Hưng chăng? Châu chăng? Phượng chăng? Tuệ chăng? Toàn chăng? Có lẽ đều không phải. Hoặc có lẽ là h́nh bóng tổng hợp của tất cả, và nhiều nữa. Trong lúc ấy, một người khổng lồ từ ngoài cửa đi vào, một người dữ dằn cao lớn, như một hung thần, như một con quái vật; với hai bàn tay khổng lồ, kẻ đó sắp túm lấy em tôi, túm lấy để tiêu diệt. Khoảng cách giữa tôi và kẻ đó rộng quá, tôi không thể chạy tới để can thiệp kịp lúc được. Mà tại sao chân tôi như dính cứng vào đất như thế này? Trong giây phút nguy nan đó, bản năng tự vệ - tự vệ đây có nghĩa là bảo vệ cho em tôi, khiến tôi liệng ngay vào kẻ hung dữ kia một vật ǵ mà tôi có sẵn trong tay, một vật nằng nặng ấy vào kẻ kia với tất cả sức lực b́nh sinh của tôi. Nhưng hắn tài quá: hắn đưa tay bắt được vật ấy rồi tôi mới biết được rằng đó là một chiếc cưa tay, h́nh ṿng cung, ta thường dùng để cưa những tấm ván nhỏ. Nguy quá, như thế là tôi giúp cho một khí giới để tàn hạn em tôi! Trước sự đau đớn vô biên của tôi, kẻ kia cười sằng sặc và cưa em tôi ra làm hai mảnh như cưa một cây chuối non dại.

Tôi đang đau thảm thiết th́ bổng thức dậy. Đầu óc tôi nặng trĩu. Nhưng tôi lại thiếp đi ngay và mơ thấy giấc mơ thứ hai, ngay sau đó. Tôi thấy tôi đang đứng ở trong một căn pḥng khá rộng có bày biện bàn ghế hẳn ḥi chứ không phải là một căn pḥng trống trải như trong giấc mơ trước nữa. Tôi thấy một con rùa nhỏ bé bằng đồng, con rùa theo h́nh dáng những cặp rùa mang trên lưng những chân đèn cắm nến thấy trên các bàn thờ ở quê nhà. Con rùa ấy th́ tượng trưng cho ǵ th́ tôi không biết rơ, nhưng tôi nghĩ là rất thân thiết và thiêng liêng đối với tôi. Không hiểu do đâu mà tôi biết được rằng nó đang lâm nguy, đang bị ốm nặng và sẽ phải chết. Mà cái chết của nó có liên hệ mật thiết đến cả hiện hữu tôi. Lo cho con rùa tôi mới đi lấy dầu cù là xoa vào lưng nó và đánh gió cho nó (Nguyên Hưng đừng cười). Tôi làm công việc ấy với tất cả thận trọng, sốt sắng trang nghiêm và tin tưởng. Nhưng bỗng nhiên con rùa kêu khóc. Kêu khóc bằng cách nào th́ tôi không biết. Tôi chỉ biết là bệnh t́nh nó trở nên trầm trọng do một sự vụng về nào đó của tôi. Tôi xem xét lại th́ thấy có một đường nứt trên lưng con rùa. Tôi hoảng hốt nghĩ rằng có lẽ dầu cù là thấm vào đường nứt ấy đă gây tác động nguy hại cho lục phủ ngũ tạng của rùa. Và con rùa sắp chết. Tôi hoảng hốt thêm, định lấy một cây tăm khươi bớt chất dầu cù là ở trong kẻ nứt ra, nhưng chậm mất rồi. Có một âm thanh kỳ bí nào nói thẳng tới tâm hồn tôi, cho tôi biết con rùa đang dẫy chết. Lúc đó trong trạng thái tuyệt vọng và hối hận vô song, tự nhiên tôi quỳ xuống trong tư thế cầu nguyện. Cầu nguyện ai tôi không biết. Tôi chỉ biết là chỉ trong dáng điệu ấy tôi mới thấy thích hợp với tâm trạng tuyệt vọng đang ngự trị trong tôi. Nhưng con rùa đă quằn quại dẫy chết. Nó uốn éo như một chiếc bong bóng cao su bị dằn ép và không biết vỡ khi nào. Rồi bổng nhiên nó vỡ tung vàc các tia nước từ nó bắn ra tứ tung, một tia nước bắn thẳng về phía tôi. Tôi nhẩy lùi một bước tránh tia nước đó. Tia nước rơi xuống trước mặt tôi và biến thành một vật ǵ nhỏ bằng một cái khuy, xoay tít như chong chóng. Đến khi vật ấy hết quay, tôi nh́n rơ th́ ra là một bông hoa bốn cánh như hoa lan. Rồi bổng nhiên tôi thấy đứng ở ngoài đường: một số người bị ôm liệng vào phía sau một chiếc xe cam nhông to lớn. Những người này bị liệng lên xe một cách tàn nhẫn quá khiến cho có rất nhiều người trong đó bị gẫy đôi, gẫy đôi một cách dễ dàng như những con người làm bằng chất sành chất sứ.

Thế rồi những chiếc xe cam nhông rồ máy chạy vút đi như bay để lại cho tôi một khoảng không gian rộng lớn đầy những bụi mù đỏ chạch. Lúc đó tôi thức dậy. Tim tôi đập th́nh thịch. Đau khổ trong giấc mơ c̣n làm cho tôi tê dại cả người. Tôi đưa tay lên vỗ nhẹ trên trán và cố gắng mỉm cười. Nụ cười đến trên môi tôi thực như tôi đă ước muốn. Nhưng gian pḥng im lặng của tôi vẫn c̣n phảng phất không khí rùng rợn của giấc mơ. Mồ hôi ướt đẫm cả trán cả gối, cả áo. Tôi làm một ít cử động. Cố sức ngồi dậy, lấy khăn lau sạch mồ hôi và đi thay áo. Tôi không ngủ nữa. Tôi thắp một cây nến, bởi v́ ánh sáng điện sẽ sáng quá và sẽ làm tôi mệt, và ngồi làm massage cho máu trong người chảy đều. Tôi ôn lại những chi tiết của hai giấc mơ (hay là một giấc mơ?) và cố t́m cách giải thích. Nhưng tôi không giải thích được.

Mấy hôm sau đó tôi đem những giấc mơ kể lại cho một số người quen. Gordon đă hùng biện giải thích bằng nhiều cách, nhưng chẳng có cách giải thích nào phù hợp với thực trạng tâm linh của tôi cả. Có thể đó là phát biểu của những lo ngại tập thể, hoặc cũng có thể chỉ là những h́nh ảnh chắp nối đầu Ngô ḿnh Sở trong một t́nh trạng thân thể c̣n bị đau ốm đang chịu tác động của thuốc men, chẳng có nghĩa lư ǵ cả.

Dù sao, Nguyên Hưng ơi, tôi vẫn thấy mang máng rằng những giấc mộng kia có liên hệ xa gần với những câu thơ của Lư. Nếu phong ba băo táp đến, th́ tôi ước muốn được có mặt để cùng được chịu đựng với tất cả mọi người. Đừng để đến khi tôi về, th́ chỉ c̣n “một khung trời đổ nát” trong đó tôi chỉ t́m được h́nh bóng của những người thân yêu ở “trong tận đáy ḷng” của tôi.

Nguyên Hưng ơi, hồi tôi rời Madford và những khu rừng hiền lành, những chiếc hồ rộng lớn của nó th́ tôi chỉ kịp ghé Princeton có hai ngày trước khi tôi về Nữu Ước lại… Cái thành phố có những chiếc nhà chọc trời ấy không thích hợp với tôi chút nào. Ở đấy th́ chỉ có một cái lợi là được gần gũi những sinh hoạt văn hóa. Luôn luôn có diễn thuyết hay, có triển lăm giá trị. Luôn luôn có những buổi đại ḥa tấu. Nữu Ước có bao nhiêu thư viện, bảo tàng viện và bác cổ viện lớn. Kỷ niệm ngày đầu tiên tới Nữu Ước vừa buồn cười vừa bực bội. Ngày ấy Gordon đưa tôi từ Princeton tới Nữu Ước bằng chiếc xe rộng răi của anh. Sau khi nhà cửa lo xong, chúng tôi đem đồ đạc lên rồi, tôi mới cùng Gordon đi phố để mua ít vật dụng cần thiết. Tôi nhớ là khi chúng tôi đang đi trên hè phố Amsterdam, th́ có một người vào khoảng bốn mươi, ăn mặc chững chạc chạy lại gần chúng tôi. Người ấy nói giọng bô bô có vẻ như quen thân với nhau trong xóm làng lâu rồi. Ông ta reo lên: “A! mặc cái áo ǵ mà ngộ quá vậy? Có phải cái áo thầy tu đạo Phật không”. Nguyên Hưng cũng biết là khi đi ra ngoài phố tôi thường mặc áo nâu chứ ít khi mặc áo xám. Gordon trả lời thay tôi: “Phải đấy thưa ông”. Chúng tôi dừng lại bên hè đường nói chuyện. Vẫn bô bô, ông ta hỏi tôi từ xứ nào đến. Khi nghe tôi nói từ Việt Nam, ông ta có vẻ ngơ ngẩn không biết Việt Nam là xứ nào, nằm ở góc nào trong bản đồ thế giới. Thế rồi ông ta hỏi. “Thế th́ đạo Phật có tin đức chúa Jésus không?” Câu hỏi hướng về tôi. Tôi trả lời “có chứ” Ông ta ngạc nhiên hỏi tại v́ sao. Tôi có cảm giác khó chịu, bởi v́ đứng ngoài đường thập mục sở thị không tiện đàm luận những vấn đề như thế. Gordon đỡ lời: “Thực đấy mà, thầy ấy nói thực đấy mà”. Ông ta phân bua với tôi: “Ở đây thiên hạ bày ra điều này, điều nọ, và cho đó là lời của chúa Ki tô. Họ bán Trời bán Phật mà ăn đấy, các ông ạ.” Rồi ông ta c̣n thao thao bất tuyệt các vấn đề ông ta vừa nêu ra. Để cắt đứt. Tôi mới hỏi: “Thế ông theo đạo nào thưa ông?” Ông ta nghiêm trang rút ví da ra và nói: “Tôi theo đạo này”. Rồi ông ta loay hoay mở ví, có lẽ đưa tôi xem một chứng minh thư hay một thẻ tín đồ của một giáo phái nào đó. Kỳ thực, ông ta chỉ rút ra một xấp giấy bạc đô la và lập lại: “Tôi theo đạo này”. Th́ ra ông ta theo đạo tiền. Gordon cười ha hả. Tôi cười đến chảy nước mắt. Tôi chào người bạn ngộ nghĩnh vừa gặp và kéo theo Gordon đi theo. Tôi nói “Tuy vậy nhưng cũng khá khen ông ta là người chân thật, dám nói những điều ḿnh nghĩ.”

Không biết Gordon nghĩ ǵ khi tôi cho anh biết rằng người kia là người dân Nữu Ước đầu tiên mà tôi gặp và nói chuyện. Chúng tôi ghé vào một tiệm hấp nhuộm y phục, bởi v́ tôi muốn thuê nhuộm lai mấy cái áo tràng nâu của tôi bây giờ đă bạc mầu rồi. Tiền nhuộm đắt quá khiến tôi ngần ngại. Một lúc sau ông chủ tiệm nói với tôi: “Mà ông nhuộm làm ǵ đă chứ. Tôi biết là trong ṿng vài ba tuần lễ ông sẽ liệng những cái áo rắc rối ấy để mặc đồ tây cho mà xem. Những người ngoại quốc đến đây lúc đầu th́ mặc quốc phục họ, nhưng sau đều mặc đồ Tây cả”. Tôi cũng không buồn cho ông ta biết là áo tôi đang mặc không là quốc phục nào cả, và tôi không phải là một người chân ước chân ráo tới cái xứ này. Chúng tôi nói lời cám ơn và bỏ đi.

Buổi chiều hôm ấy tôi rủ Gordon về tiệm ăn người Việt Nam ở đường Amsterdam, tiệm ăn duy nhất bán thức ăn Việt Nam ở đây. Chúng tôi đi bộ ngược lên đường 21 mới t́m ra được tiệm. Khi chúng tôi vào th́ tiệm vắng người. Có hai người sinh viên Việt Nam hầu bàn, một nam một nữ, đang ngồi nói chuyện. Thấy chúng tôi vào liền chạy ra mời. Chúng tôi t́m một góc để ngồi. Có lẽ cả hai đều phải xa nhà từ hồi c̣n bé nên không nhận được ra tôi, người đồng hương trong chiếc áo nâu. Người con gái nói tiếng Anh thật hay, hỏi tôi có phải người Miến Điện không. Tôi cười gật đầu. Gordon cũng cười. Chúng tôi gọi vài thức ăn chay, rồi nói chuyện hai người về lai lịch cái tiệm ăn này. Măi đến khi giă từ tôi mới cho hai người biết là tôi là người Việt. Cả hai đều mừng rỡ v́ họ cũng thuộc về một gia đ́nh Phật tử. Say này tôi biết chính chị Lan điều khiển quán ăn. Chị nói chị cũng bận dạy học ở trường nên không có nhiều th́ giờ chăm sóc quán. Cái quán ăn, chị nói, vậy mà có giá trị tương đương với cơ sở văn hóa của ṭa đại sứ. Người đến ăn phần lớn là những người trí thức. Những món ăn, những bức họa, những đĩa nhạc và nhất là những câu chuyện cùng những người hầu bàn đă giúp cho khách hiểu biết và yêu mến Việt Nam. Mà cái quán ăn ấy cũng oai thật đấy, Nguyên Hưng. Người hầu bàn nào cũng nói được tiếng Anh và tiếng Pháp rất thông thạo, và có thể nói từ những câu chuyện thời sự, chính trị, văn minh, rất đứng đắn. Cậu sinh viên tôi gặp hôm ấy nói tiếng Đức rất giỏi.

Đó là những ǵ tôi không quên về ngày đầu tiên tôi đến với thành phố nhộn nhịp kia. Mùa thu năm nay khi trở về, tôi quen thuộc với khung cảnh hơn, dù vẫn thấy rằng những ngày ở rừng Mendford quá ngắn. Từ đầu mùa thu tôi được nhận làm việc tại trường đại học Columbia. Tôi dạy mỗi tuần năm giờ, ngoài ra c̣n có một số giờ phải ngồi văn pḥng để tiếp sinh viên và giúp đỡ cho họ về việc sưu tầm tài liệu. Lương tôi được ba trăm năm chục đồng; như thế là tương đối khá “giàu”. Trong những người sinh viên của tôi có một cặp bạn rất thân, đó là David và Steve. Steve thích tôi lắm và đề nghị thuê chung một cái nhà với tôi. Tôi bằng ḷng ngay. David thường đến chơi và ở lại ăn cơm với chúng tôi. Chúng tôi có những buổi tối thân mật, có lẽ êm thắm hơn cả những buổi tối gia đ́nh.

Cái chú Steve ấy, để tôi nói cho Nguyên Hưng nghe, đă ăn chay trường với tôi trong suốt mùa thu qua cả nữa mùa đông này nữa. Tôi hỏi ăn chay có yếu đi không. “Trái lại c̣n thấy khỏe mạnh thêm”. Từ ngày có Steve, chúng tôi tự nấu ăn lấy mỗi ngày và ngày nào cũng được hai lần ăn cơm, bằng đũa. Steve cầm đũa khá vững v́ đă được ở lại Nhật Bản mấy tháng mùa hè năm ngoái.

Chỉ sau mấy ngày gặp Steve tôi mến chú ta liền, cũng thân thiết như với Hưng và Tuệ vậy. Steve cao bằng tôi, tóc hơi vàng và rất mềm, cằm anh ta hơi nhọn. Mắt mầu nâu. Rất giàu t́nh cảm và tính cách nghệ sĩ. Steve rất ham triết học đông phương; từ mùa thu chú ta đă ghi tên học những lớp đông phương học, kể cả một lớp Hoa ngữ. Cứ nh́n thấy cậu ta ngồi tập viết chữ nho cũng đă thấy thương. Không có sự vui buồn nào trong đời mà Steve lại không về kể lại với tôi. Tôi hay có những nhận xét về suy tư của Steve và anh chàng thường hay ngồi chăm chú để mà nghe; đôi khi nhíu lông mày đê làm nhăn một ít cái trán thông minh của nó. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có hơi giận nhau, nguyên do là v́ Steve vẫn c̣n quen cái thói tiếp nhận theo đầu óc Tây phương, và tôi cứ nghĩ rằng tôi không diễn tả bằng bằng cách nào hơn là bằng cách đông phương của tôi. Tôi chắc Steve nhiễm cái đường lối của giáo sư Cerbu “go East but stay West” rồi. Stay West th́ làm chi có thể thực sự go East hả Nguyên Hưng.

Cái nhà chúng tôi thuê với giá 150 đồng bạc mỗi tháng có 1 pḥng ngủ, một pḥng làm việc, một pḥng tắm, một cái bếp và một cái hành lang. Đó là địa chỉ của tôi bây giờ: 306 west 109 th Street. Chúng tôi ở từng thứ năm, có hai cửa sổ lớn nh́n ra đường. Phải nh́n nghiêng mới thấy được một mảnh trời, về phía Morning Side. Những bàn ghế, giường nệm, chén bát và soong chảo đều do Steve chở về, nên khi thuê nhà tôi chẳng thể lo lắng ǵ cả. Steve là con của một ông khoa trưởng một trường kỹ thuật nổi tiếng, ḍng giỏi thông minh nhưng không thích khoa học, kỹ thuật. Mẹ của Steve có đến thăm một lần cách đây chừng nữa tháng và mang cho chúng tôi vô số thức ăn ngon.

Người tôi phân chia công việc như thế này: tôi th́ lănh phần nấu ăn và rửa bát. C̣n Steve th́ đi chợ và dọn dẹp lau chùa nhà cửa. Steve phải đi học nhiều nên tôi phải ra tay làm nội trợ. Mỗi ngày tôi chỉ cần có mặt ở trường vài giờ đồng hồ, những giờ dạy và những giờ ngồi ở văn pḥng - Từ khi thuê được nhà, tôi hay ở nhà làm việc, thiếu tài liệu ǵ th́ nhờ Steve mượn ở thư viện giúp. Tôi có cái thẻ có thể mượn một lần hàng mấy chục cuốn sách và mượn như thế trong nửa tháng. Ngồi ở nhà ấm áp một ḿnh, tôi làm được nhiều việc hơn. Nấu ăn cho Steve cũng là một sự thích thú. Có thể là món ǵ do tôi nấu ra Steve cũng khen ngon cả - tôi nghĩ Steve có thể ăn chay suốt đời mà không biết chán và tôi có thể nấu cho Steve ăn hoài mà không sợ tốn công.

Cố nhiên là cậu ta không biết đi chợ - tôi phải dẫn Steve đến một tiệm bán thực phẩm đông phương ở gần đấy và chỉ cho cậu “đi chợ” trong những lần đầu. Chúng tôi mua nấm hương, tàu yểu, đậu phụ, củ cải, khổ qua, dưa cải v.v… Rau đậu tươi th́ Steve có thể tự đi mua ở bất cứ một nhà bán thực phẩm nào khác dọc đại lộ Broadway. Chúng tôi t́m được chỗ mua gạo thật ngon và mua từng chục kư chứ không mua từng hộp nhỏ như những gia đ́nh khác. Thường thường những hôm đi học về sớm. Steve ghé chợ mua hai giỏ thức ăn về chất đầy chiếc tủ lạnh lớn đặt trong nhà bếp. Cái nhà bếp chúng tôi thật sạch sẽ và trang nhă. Steve lau chùi nhà bếp và nhà tắm gần như mỗi ngày. Bếp nấu gaz cho nên rất tiện lợi. Sáng nào tôi cũng dậy sớm và sửa soạn điểm tâm cho hai người. Thường thường, Steve thức khuya và chỉ dạy đủ sớm để ăn điểm tâm rồi đi học ngay. Có bữa tôi cũng đến trường cùng với Steve một lần nhưng chỉ độ mười một giờ là tôi trở về. Tôi làm việc một lát rồi đi thổi cơm và làm thức ăn. Mười hai giờ mười lăm th́ Steve về, lần nào cũng đói mèm, và chúng tôi ngồi vào bàn ăn. Thức ăn bao giờ tôi cũng làm chung cho cả buổi chiều trong tủ lạnh; đến tối tôi chỉ cần thổi cơm và hâm lại thức ăn cho nóng thôi.

Buổi chiều tôi thường không đi ra ngoài. Tôi viết lách, đọc, soạn bài, trả lời những thư từ. Có việc cần tôi mới đi vào trường hoặc vào thư viện. Thỉnh thoảng David cùng về với Steve, và chúng tôi ăn cơm với nhau trong pḥng khách một cách im lặng, trang nghiêm. Sau những bữa như thế, tôi để cho Steve nói chuyện với David và đi rửa chén bát. Tôi rất thích công việc này v́ tôi thấy trong khi rửa chén bát tâm hồn tôi luôn luôn an tĩnh, vui vui. Có khi tôi bất chợt đang nghịch với những chiếc bóng xà pḥng và hát nhỏ những bài hát học được hồi c̣n bé thơ. Nước vừa ấm thật dễ chịu. Tôi lau chùi cái bếp gaz thật sạch sẽ, soạn lại đồ đạc, đi tắm ngâm ḿnh trong nước nóng, thay áo và ra ngồi góp chuyện với hai người trẻ tuổi. Những buổi như thế thật êm đềm. Steve biết tính tôi, đi tắt điện, thắp lên vài ngọn đèn nến cho mát mắt và để cho chúng tôi nghe một ít những bản nhạc êm dịu ưa thích. Những lúc đó chúng tôi thường không nói chuyện nữa, chỉ ngồi yên mà theo dơi những gịng suy tư của ḿnh.

David thường ở với Steve rất khuya; thường thường khi nào tôi bảo về mới về. Có lúc hai người bạn đi với nhau suốt ngày và tôi ở nhà một ḿnh, nấu cơm một ḿnh, ngồi vào bàn ăn một ḿnh.

Nguyên Hưng, tôi biết Steve mến tôi thật sự. Steve nghe tôi nói về t́nh trạng đất nước chúng ta với tất cả sự chăm chú và xót xa. Tự nhiên Steve muốn dùng tiếng Việt Nam, và nếu có thể được, cùng nuôi ước mộng t́m lai Phương Bối. Tôi đă nói cho Steve nghe về t́nh của chúng ta đối với Phương Bối. Tôi đă nói đến Phương Bối như một chút lửa hồng không bao giờ tắt trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Tôi đă nói Phương Bối như một chất liệu tâm linh cần thiết cho mọi ước ao, mọi xây dựng. Có thể là tôi đă quan trọng hóa Phương Bối quá, nhưng mà tại sao mắt Steve lại sáng lên như thế mỗi lần nó nghe tôi nói đến Phương Bối? Steve quyết sẽ học tiếng Việt và tôi cũng bắt đầu dạy cho Steve những câu đàm thoại đầu tiên. Steve rất ham học ngoại ngữ. Nói tiếng Pháp c̣n chập chững mà đ̣i làm thơ. Rồi trong những lúc đi chợ mua thức ăn, cứ nấn ná ở lại để tập nói tiếng Tàu với cái cô bán hàng người Trung Hoa. Steve đă bập bẹ nói tiếng quan thoại rồi đấy. Steve bảo nhất định phải học nói cho được tiếng Việt bởi v́ anh chàng rất thích dự tính của tôi về làm một cái làng dễ thương ở miền quê, trong đó một số anh em sống thật têm ái với nhau và thật hữu ích cho mọi người.

Steve dành làm tất cả những công việc khó nhọc. Biết tôi rất có thể bị cảm khi ra ngoài lạnh nên Steve dành đi những công việc mà Steve có thể làm thay tôi được. Tội nghiệp, những hôm tôi bị cảm, Steve phải “cạo gió”, và v́ hai tay của Steve khá mạnh, chẳng mấy chốc mà tôi đă thấy ấm áp. Nếu tôi không bớt th́ Steve lại gọi điện thoại cho bác sĩ Cusbman.

Steve không được sung sướng mấy khi nghĩ đến gia đ́nh. Hè năm ngoài trong khi ở Nhật Bản, anh chàng có làm quen được với một thiếu nữ Nhật và hai người đă trao đổi thư từ thân mật từ đầu mùa thu đến nay. Người bạn gái Phù tang tên là Hạnh Trí Tử, hẹn sẽ sang thăm trong mùa Xuân tới và Steve cứ nhắc hoài đến dịp ấy. Néu không bị gia đ́nh gọi th́ Steve đă có thể theo tôi về Priceton trong dịp lễ giáng sinh này rồi. Nó đă về quê bằng máy bay hai hôm trước khi tôi rời Nữu Ước. Căn nhà chúng tôi hiện giờ ở đường 109 có lẽ đang lạnh lẽo, không đèn, không đuốc, không hơi ấm. C̣n tôi, tôi đang ngồi đây, giữa ḷng Princeton quen thuộc. Trời đă chạng vạng rồi. Ngoài kia, tuyết vẫn rơi. Tôi sẽ đi t́m Saphir - chúng tôi sẽ đi làm một thức ăn ǵ để ăn cho thật nóng, và sau đó, về campus center ngồi nói chuyện và nghe bản phóng sự bảy giờ rưỡi tối nưoi chiếc máy truyền h́nh đặt ở góc pḥng.

 

phần 3