TÙNG
Thích Nhất Hạnh
Trích trong "Của Tùng Đôi Cánh gài"
Sau khi thỉnh
được 107 tiếng đại hồng chung, chú Tâm
Thể dùng cán vồ chuông khẻ điểm hai tiếng
“keng keng” trên lưng chuông để báo hiệu cho sư
huynh là Tâm Hiền rằng chỉ c̣n một tiếng
đại hồng chung cuối cùng nữa là chuông
“nhập”, và buổi công phu sáng bắt đầu. Đợi
cho tiếng chuông thứ 107 ngân hết, chú mới thỉnh
đến tiếng chuông thứ 108.
Từ góc thiền
đường chùa Pháp Vân đă có tiếng bảng
đầu bằng ba tiếng đại hồng chung và
buông vồ xuống, trong khi ba hồi bảng của chú Tâm
Hiền kéo dài. Đại chúng đă sẵn sàng trên chánh
điện để bắt đầu công phu sáng.
Chú Tâm Thể khoác chiếc
áo tơi lên vai cho ấm rồi xuống thang lầu chuông,
mở cửa đi ra ngoài.Sương mù c̣n dày đặc.
Chú rảo bước về phía tam quan chùa, nơi vị
khách tăng tá túc.
Vị khách tăng này
tới chiều hôm qua nhưng không vào chùa, chỉ xin
nghỉ chân lại ngoài tăm quan.Chú Tâm Thể đă
mời ông ta vào nghỉ ở hậu liêu nhưng ông từ
chối. Ông ta chỉ xin chú một mảnh chiếu
để ngủ lại ngoài tam quan, nói rằng sáng sớm
khi sương mù tan, ông ta đă phải lên đường
sớm.Chiếc áo nâu bạc màu của khách tăng dính
đầy bụi đường.Tóc râu dài ra nhưng ông
không cạo, mặt mũi tay chân ông đầy cáu ghét, và
từ người ông bay ra một mùi tanh hôi nồng
nực.Chú Tâm Thể đă vào chùa bưng ra một chậu
nước và một chiếc khăn tay. Rồi chú lại
vào đem ra một chiếc chiếu trải trên nền tam
quan. Đợi vị khách tăng rửa mặt rửa tay
xong, chú bưng chậu nước vào, và một lát chú
bưng ra một chiếc mâm gỗ, trên mâm có một bát cháo
trắng, một ít dưa cải, một chén nước
tương và một đôi đũa. Vị khách tăng
cảm ơn chú và thong thả ngồi ăn cháo.Chú chắp
tay chào ông và khoan thai trở vào chùa. Độ một giờ
sau, khi trở ra tam quan, chú thấy vị khách tăng đă
nằm cuộn tṛn trong chiếc chiếu ngủ. Chú cút
xuống bưng chiếc khay lên và nhẹ nhàng đi vào nhà
bếp.
Sáng nay ra tới tam quan, chú
thấy vị khách tăng đang yên lặng ngồi
thiền. Ông không ngồi theo kiểu kiết già, chân
phải của ông co gối lên, bàn chân đặt trên
mặt đất.Ḿnh mẩy vị khách tăng hôi hám
nhưng phong thái của ông thật thanh cao. Tuổi ông
vào khoảng bốn mươi lăm, năm mươi.
Nét mặt của ông sáng sủa, khả kính; tóc râu ông ra dài,
có lẽ đă nhiều tháng chưa cạo. “Đây là
một du tăng hành tung bí mật” chú Tâm Hải thầm
nghĩ. Có lẽ ông ta không muốn làm phiền đại
chúng chư tăng v́ h́nh thức không chính đốn
của ông, cho nên đă từ chối lời mời hôm qua
của ḿnh vào ngủ trong hậu liêu. Sáng nay nếu
ḿnh được nói chuyện với ông ta th́ thế nào
ḿnh cũng biết được chút ít hành tung của
ông.Nghĩ thế, chú định quay trở vào chùa
để mang ra một thau nước ấm cho vị
khách tăng rửa mặt.Nhưng chú chưa kịp quay
bước th́ vị khách tăng đă mở mắt.Chú
chấp hai tay lên ngực làm lễ.Vị khách tăng
đằng hắng một tiếng nhỏ rồi lên
tiếng.
Từ đây đến
núi Cửu Lũng c̣n bao nhiêu đường đất
nữa, thưa chú?
Chú lễ phép đáp:
Bạch ngài, núi Cửu
Lũng không c̣n xa, chừng nửa ngày đường th́
tới. Để con vào lấy nước ấm ra Ngài
rửa mặt.
Vị khách tăng khoác tay
ra dấu không cần. Ông tựa vào tường,
đứng dậy một cách mệt nhọc và đưa
tay với lấy chiếc gậy trúc đựng ở góc
tường.
Cám ơn chú.Tôi phải
đi ngay kẻo lỡ không tới kịp trước khi
trời tối.Nói xong ông chống gậy khấp khểnh
đi ra khỏi tam quan. Chú Tâm Thể theo sau lưng,
định tiễn vị khách tăng xuống đồi,
tận ngả ba đường núi. Nhưng ông ta khoác tay
ra hiệu cho chú đi lui. Từng bước khấp
khểnh, ông lần xuống đồi.
“Đi như thế th́
nửa ngày đường không tới được núi
Cửu Lũng.” Nghĩ như vậy, chú Tâm Thể
chắt lưỡi phàn nàn.“Đi xa mà cũng không lấy
một chiếc tay nải.Tóc tai áo quần đầy
cả bụi đỏ.Ḿnh mẩy th́ gầy ốm
đến trơ xương.Không biết đến núi
Cửu Lũng để làm ǵ gầy ốm mà vội vàng đến
thế.”Chú có nghe nói đến ngôi chùa hay ngọn tháp nào
ở núi ấy đâu. Chính chú cũng chưa tới
Cửu Lũng lần nào; chỉ nghe nói rằng ngọn núi
ấy khá hoang vu và đỉnh núi cao ngất, lấp trong
mây mù, ít khi thấy được đường
nétmột cách rơ rệt.Không biết tại sao trong ḷng chú
Tâm Thể nẩy sinh ra một niềm kính mến đôi
với vị du tăng lạ kỳ kia. Dáng điệu và
phong thái của ông ta có một cái ǵ khiến chú ưa muốn
gần gũi và hiểu biết. Nhưng ông ta đă
đi.Chú chép miệng:
Vậy là ḿnh không biết
thêm ǵ hành tung của vị du tăng này cả. Chỉ
biết có một điều là ông ta đang t́m tới núi
Cửu Lũng.
Nghĩ như vậy, chu
thong thả đi vào chùa cùng các chú khác lo cháo cho chư
tăng, bởi v́ buổi công phu khuya sắp kết thúc.
Vị du tăng đi
rất chậm, bước cao bước thấp. Ông có
một mụt ghẻ trên bắp đùi trái, lớn
bằng cả một quả bưởi.Mụt ghẻ làm
ông đau nhức không cùng, nhưng ông chịu đựng
không hề kêu la. Chỉ trong những giấc mơ
thỉnh thoảng ông mới cất tiếng rên khe khẽ
mà thôi.Nghe chú tiểu nói chỉ cần nửa ngày
đường là tới núi Cửu Lũng, ông hy vọng
có thể đi suốt ngày và tới được chân núi
lúc trời tối. Nhưng mụt ghẻ hành ông
đau nhức quá khiến hôm đó ông chỉ mới đi
được hai phần ba đường. Ông phải
nghỉ đêm dưới một gốc cây. Ông đă
nhịn đói đă quen, bởi v́ trong suốt sáu tháng
trời du hành có nhiều hôm ông phải ngủ dưới
một gốc cây và không có một hạt cơm nào bỏ
bụng.Nếu trên đường đi mà gặp một
ngôi chùa vào lúc trời tối th́ ông xin tá túc lại, và khi nào
cũng chỉ xin ngủ nhờ dưới mái tam quan.
Thường thường ông được một
chú tiểu như chú Tâm Thể mang một bát cháo hay một
bát cơm nguội ra cúng dường.Chú tiểu hồi hôm
thật chu đáo, đă đem cho ông một chậu
nước ấm và một chiếc chiếu c̣n thơm mùi
nắng.Tối nay ông ngủ, gối đầu trên một
chiếc rễ cây.Khí hậu miền núi lạnh lẽo quá
khiến ông co ro, trằn trọc cả đêm không hề
an giấc.
Trời chưa sáng hẳn
vị du tăng đă chỗi dậy để tiếp
tục cuộc hành tŕnh. Sức ông yếu quá, nhiều lúc ông
té quỵ, tưởng không đứng dậy
được nữa.Nhưng ông vẫn cố gắng. Đi
được vài trăm bước, ông dừng lại
ngồi nghỉ trên một tảng đá. Vừa mới
lấy lại được hơi thở, ông lại
chống gậy đi.Cứ như thế cho đến
lúc khoảng cuối giờ thân hôm ấy th́ ông đến
được chân núi Cửu Lũng.
Nh́n quanh, vị du tăn
không thấy dấu vết nào của dân cư, làng mạc.
Không một làn khói lam nào bay lên để chứng tỏ
rằng đàng xa kia có một nhà tiều phu đang
thổi lửa nấu cơm chiều. Không thấy
đường nét ngọn núi Cửu Lũng, v́ rừng núi
phiáa trên đă bị sương mù bao phủ. Làm sao mà
t́m kiếm được thảo am của người
ông muốn gặp, trong khi núi đồi th́ bao la mà
sương mù th́ dày dặc?
“Người xưa ở
tại núi này
Mây mù che lấp biết rày
t́m đâu?” [1]
Vị du tăng đành
ngồi xuống nghỉ trên một tảng đá. Sáu
tháng trời lặn lội mới lết tới
được chân núi Cửu Lũng. Sương mù dày
đặc quá, rừng núi bao la quá, xứ sở quănh hiu quá,
biết làm sao t́m hỏi được nơi cư trú
của người xưa?
Người xưa vốn
là một vị tăng người Ấn Độ tên là
Kaniska. Cách đây mười sáu năm, vị du tăng, tên
là Tri Huyền – đă gặp Kaniska tại một ngôi chùa
cổ ở kinh đô Trường An nơi ông tu
học.Vị tăng người An khi ghé chùa th́ đă bị
ghẻ lở đầy người.Sáng nào thầy Tri
Huyền cũng bưng một chậu nước nóng
tới pḥng của Kaniska. Thầy bỏ một nắm
muối biển vào chậu nước, ḥa muối cho tan và
bắt đầu cởi áo của ông thầy tu gốc
Ấn và rửa ráy cho ông. Công việc rửa ráy xong xuôi,
thầy lấy y sạch mặc cho Kaniska và đem chiếc
y mới thay đầy máu mủ hôi hám đi giặt và
đem phơi.Buổi trưa, Tri Huyền lại mang cơm
tới cho Kaniska và buổi chiều thầy lại tới
mang trà nóng đến, rồi cất đẹp khay bát
của buổi ăn trưa.Chứng bệnh của Kaniska
không thấy thuyên giảm, nhưng sự chăm sóc của
Tri Huyền đă làm nhẹ bớt sự đau khổ
của người bệnh.Suốt trong hai năm trời,
Tri Huyền săn sóc cho Kaniska như săn sóc cho một
người anh ruột, không có hôm nào thầy bỏ quên
hoặc làm sơ sót. Đối với. Đối với công
việc chấp tác và tu học tại chùa, Tri Huyền không
ngày nào là không làm tṛn bổn phận, v́ vậy không ai có
thể trách cứ thầy là chỉ biết lo cho ông
thầy tu Ấn Đọ mà quên lăng trách nhiệm ḿnh.
Nhưng một buổi
sáng, sau khi được rửa ghẻ và thay áo, ông
thầy tu Ấn Đọ nói với Tri Huyền, giọng
nhỏ nhẹ:
Mấy năm nay thầy
săn sóc cho tôi rất tận tụy, tôi rất cảm
ơn thầy. Bắt đầu từ ngày mai, thầy
không cần săn sóc cho tôi nữa, v́ chiều nay tôi sẽ
rời khỏi chốn này. Tri Huyền sửng sốt:
Ngài đi đâu? Đau yếu thế này th́
lấy ai săn sóc cho ngài?
Kaniska nh́n thầy với
vẻ mặt dịu hiền. Ông chậm răi:
Tôi có việc cần
phải lên đường. Xin thầy Tri
Huyền đừng lo. Ở đâu
cũng có pháp lữ, thế nào rồi cũng có
người lo lắng cho tôi.
Thấy Tri Huyền nét
mặt đượm buồn, ông tiếp:
Nhân duyên giữa chúng ḿnh
vẫn c̣n, chưa hết đâu mà buồn. Thế
nào chúng ta cũng lại gặp nhau. Tôi biết
thầy là người thông tuệ, sự tu học của
thầy sẽ thành công lớn.Rồi đây thầy sẽ
trở thành một vị cao tăng, tiếng tăm
lừng lẫy. Tôi xin phép nhắc với
thầy rằng mục đích của sự tu hành là
để đạt tới giải thoát chớ không
phải là để nổi tiếng. T́nh
thâm giao giữa chúng ta khiến cho tôi không ngần ngại
mà nhắn nhủ với thầy như vậy.
Tri
Huyền cúi đầu nhận lấy những lời
chỉ giáo củă Kaniska. Thầy lại hỏi:
Ngài có nói là
trong tương lai chúng ta sẽ gặp nhau. Vậy
th́ bao giờ chúng ta gặp nhau, và gặp nhau ở chốn
nào?Tôi chỉ sợ sau này trên
bước đường hành hóa, Ngài không c̣n lưu
lại một dấu vết…
Đă có nhân
duyên với nhau th́ dù có trốn nhau cũng vẫn gặp
nhau. Đừng lo.Nội trong kiếp này thầy sẽ
đạt được những bước lớn trên
đường sữ nghiệp.Tuy vậy túc nhơn
vẫn c̣n vướng víu và trong khoảng mười
bốn mười lăm năm nữa thế nào thầy
cũng bị tai nạn.Lúc ấy hăy nhớ mà t́m
đến tôi, tôi sẽ giúp thầy.
Nhưng lúc
đó th́ biết Ngài ở đâu mà t́m?
Tri
Huyền hỏi. Đưa tiển Tri Huyền ra khỏi
pḥng, vị tăng sĩ gốc Ấn nói:
Cứ t́m
đến núi Cửu Lũng ở Bành Thành đất Tây
Thục là có tôi ở đấy. Từ
dưới chân núi nh́n lên thấy chỗ nào có hai cây tùng
vươn lên cao ngất th́ đó là nơi tôi ở.
Thầy nhớ lấy tên núi nhé.Cửu
Lũng Sơn ở dất Thục.
Thế rồi vị
tăng sĩ Ấn đă ra đi và từ đó thầy
Tri Huyền không c̣n nghe ai nhắc đến tên
người.
Thời gian qua mau, Tri
Huyền dần dần nổi tiếng là bác thông kinh
sử, mỗi khi thầy đăng đàn thuyết pháp là
hàng ngàn người đến dự. Đất Thần Kinh
thiếu ǵ cao tăng, nhưng tiếng tăm pháp sư Tri
Huyền lừng lẫy cho đến nỗi một ngày
kia vua Ư Tông cũng phải lưu tâm đễ ư.Năm
ấy nhằm tiết Phật Đản, vua triệu pháp
sư Tri Huyền vào cung thuyết pháp cho hoàng thái hậu,
hoàng hậu, các thái tử, công chúa và văn vơ bách quan nghe.
Trên pháp tọa, pháp sư Tri Huyền tướng
mạo đoan nghiêm, đẹp như một vị
Phật sống; tiếng nói của người sang
sảng lôi cuốn thính giả đi vào thế giới
của diệu pháp một cách say mê.Vua Ư Tông rất
đẹp ḷng, truyền ban tặng cho pháp sư một áo
cà sa màu tía. Từ đó danh tiếng của Tri Huyền càng
thêm lừng lẫy.Lúc đó ông đă được
bốn mươi ba tuổi.Sau nhiều lần triệu
thỉnh pháp sư Tri Huyền vào cung thuyết pháp, vua Ư Tông
lạy tôn ông làm quốc sư và tứ cho Tri Huyền danh
hiệu Ngộ Đạt, sửa soạn chùa An Quốc ở
sát hoàng cung cho mỹ lệ và rước quốc sư
Ngộ Đạt về trú tŕ tại đó để tiện
việc lui tới thăm hỏi đạo mầu.
Danh tiếng của pháp
sư Tri Huyền tức quốc sư Ngộ Đạt lên
tới đỉnh cao nhất là vào mùa thu năm quốc
sư vừa đúng bốn mươi lăm tuổi, khi
vua Ư Tông ban sắc ch́ cho toàn quốc chọn người
tới kinh đô để nghe Ngộ Đạt Quốc
Sư giảng kinh Pháp Hoa.Năm ngàn chỗ ngồi
được để dành cho hoàng gia và bách quan, khách
tăng, và sĩ phu toàn quốc. Dân chúng ở kinh đô nô
nức đến nghe quốc sư giảng kinh,
người nghe pháp đứng chật cả hàng trong hàng
ngoài. Hàng chục ngàn người im lặng nghe tiếng
giảng kinh sang sảng của quốc sư.Các buổi
giảng king Pháp Hoa được kéo dài trong một tháng và
trong suốt thời gian ấy, vua Ư Tông không bỏ sót
một buổi nào.
Hôm đó là
ngày bế mạc khóa giảng Pháp Hoa. Nhân dịp
này, vua Ư Tông định làm lễ dâng lên quốc sư
một pháp tọa bằng gỗ trầm hương
để pháp sư ngồi giảng buổi giảng
cuối cùng. Pháp tọa đặt rất cao để cho
đại chúng mấy mươi ngàn người
được chiêm ngưỡng dung mạo của
quốc sư. Hôm ấy nghi lễ thỉnh sư
được cử hành thật long trọng.Sau khi làm
lễ dâng pháp tọa trầm hương, vua Ư Tông
đứng dậy cùng thỉnh quốc sư bước
lên pháp tọa th́ quần chúng Phật tử đều qùy
xuống làm lễ, có người cảm động
đến rơi lệ. Buổi giảng kinh
đó là một buổi giảng kinh mà suốt đời
Ngộ Đạt sè không quên được.
Buổi giảng kinh đó đă đánh dấu một
biến chuyển lớn lao trong
đời tu hành của Thích Tri Huyền.
Ngồi trên một
tảng đá dưới chân núi Cửu Lũng, vị du
tăng nhớ lại lúc ḿnh bước lên vào pháp tọa
trầm hương, trong khi hàng chục ngàn người cúi
rạp ḿnh làm lễ, trong đó có vua Đường Ư
Tông.Thấy ḿnh là người tu hành mà đạt
đến một địa vị cao tột trong nhân gian
như thế, Ngộ Đạt trong một giây phút ngắn
ngủi bỗng thấy một niềm tự hào dâng lên
trong ḷng. Quốc sư biết là tà niệm đă khơi,
mặt đỏ bừng, liền ngồi xuống pháp
tọa và nhiếp ḿnh vào chánh niệm. Nhưng
chậm mất rồi. Bỗng dưng, trong khoảng
không có một vật ǵ nhỏ bé, nhỏ bằng một
hạt cát, sáng trưng, bay xẹt xuống, trúng vào bắp
đùi bên trái của quốc sư làm đau nhói tới
xưởng tủy. Không chịu đựng nổi
sự đau đớn tột cùng ấy, Ngộ Đạt
buột la lên một tiếng, hai tay ôm
lấy bắp đùi bên trái. Vua Ư Tông lật
đật đứng dậy, hô thị vệ díu quốc
sư xuống pháp tọa. Buổi giảng kinh cuối cùng
như vậy là bị bải ỏ, quốc sư h́nh
như đă bị một loài rết độc cắn
nhằm bắp đùi, đang lên cơn sốt.
Ngộ Đạt biết
ḿnh không hề bị rết cắn, cái hạt bụi sáng
loáng ấy đă từ trên không gian bay xuống nhanh như
một làn chóp, không làm thủng áo cà sa mà lại chui
thẳng vào bắp đùi của ḿnh.Song ông im lặng không
nói, mặc cho các quan ngự y giải thích. Bắt đầu
từ đấy vết thương sưng tím căng
phồng lên như một trái bưởi, đau nhức
không cùng. Mười ngày sau ung nhọt khổng lồ
nứt nẻ ra thành một mụt ghẻ lớn, máu
mủ chảy ra hàng bát, mỗi ngày nhiều bận.
Thuốc thanh trong uống ngoài toa do các ngự y đưa
tới có tới hàng ngàn thứ mà không thứ nào chữa
trị được cho quốc sư. Vua Ư Tông không ngớt ra vào thăm hỏi và ra
lệnh triệu thêm thầy hay, t́m thêm thốc giỏi
đem về kinh chữa trị cho vị cao tăng
của cả triều đ́nh. Nhưng một năm
trời đă qua đi mà ung nhọt kia vẫn không
xẹp.Thân thể quốc sư gầy ốm trông thấy
và một lần nọ ngự giá đến chùa An Quốc
thăm, vua Ư Tông đă thấy một giọt nước mắt
long lanh trên mi quốc sư.
Vào một buổi khuya
sau khi đă trằn trọc hàng canh trên giường,
quốc sư Ngộ Đạt quyết định bỏ
chùa An Quốc ra đi.Một năm trời nằm trong
ngôi quốc tự để cho bao người phục
vụ và hầu hạ, không làm nên được tích
sự ǵ cho quốc gia, Ngộ Đạt cảm thấy trong
ḷng bất an và hổ thẹn. Đỉnh danh vọng đă
lên cao chót vót, hồi tủi nhục bây giờ cũng
đă xuống đến nơi thăm thẳm sâu.Quốc
sư bỏ chùa lén ra đi ngay trong buổi khuya đêm
ấy, trên thân h́nh chỉ có một chiếc áo tràng và trên
tay một chiếc tích trượng vua ban.Bắp chân
đau nhức, nhưng quốc sư đă gắng đi
suốt đêm. Ra khỏi kinh đô th́ trời vừa
hé sáng. Thấy một khúc tre ai bỏ bên đường,
quốc sư cúi xuống nhặt lên làm gậy chống
đi, và khi qua cầu, ông đă ném chiếc tích
trượng vua ban xuống ḍng sông chảy xiết.
Tích trượng trôi trở về kinh đô, c̣n quốc
sư th́ hướng về phía núi xanh cất bước.
Trưa hôm ấy đi
ngang một cảnh chợ quê, quốc sư
được một người đàn bà dâng cúng hai trái
chuối và một gói xôi.Sợ ăn xôi th́ mụt ghẻ
căng thêm mủ nên quốc sư từ chối gói xôi,
chỉ nhận hai trái chuối. Ngồi trên một mô
đất, quốc sư lấy bùn đất trát vào
mặt cho lem luốc kẻo sợ có người nhận
diện được ḿnh. Chưa biết sẽ đi
về đâu th́ bỗng nhiên trong trí quốc sư h́nh
ảnh Kaniska, vị du
Ngày đi đêm
nghỉ, quốc sư quyết t́m đến núi Cửu
Lũng, dù mụt ghẻ hành hạ không thôi.Máu mủ làm
ướt sủng ống quần, nhưng quốc sư
không có quần khác để thay. Máu mủ đă làm cho
ống quần của Quốc Sư dày cợm như mo và
một mùi tanh hôi xông lên nồng nặc, nhưng quốc
sư vẫn cố gắng chịu đựng.Chiếc áo
tràng cũng dính đầy máu mủ, cả vạt trước
lẫn vạt sau.Chiếc áo tràng sau nhiều tháng du hành
đă trở nên bạc thếch và dính đầy bụi
đường. Mỗi buổi chiều, lúc nghỉ chân
trên một rễ cây hay một tảng đá, quốc
sư thường vén ống quần nh́n vào mụt
ghẻ. Mụt ghẻ vẫn lớn như một trái
bưởi to, có bốn lổ đỏ choét; hai lổ
phía dưới gần đàu gối giống như
một cặp mắt, lổ giữa giống một cái
mũi và lổ phía trên bắp chân loét ra như một cái
miệng. Quốc sư nh́n mụt ghẻ
như nh́n vào một mặt người. Quốc
sư đối diện với mụt ghẻ như
đối diện với một khuôn mặt con người.Có
khi mụt ghẻ như muốn trợn mắt mắm môi
đe dọa quốc sư. Mụt ghẻ nh́n quốc
sư như một kẻ thù, và quốc sư nh́n mụt
ghẻ như một khuôn mặt oan gia, đau xót th́ có
nhưng oán hận th́ không.Quốc sư không nghĩ
đến chuyện lấy nước dưới sông
rửa cho mụt ghẻ.Trong một năm trời,
người ta đă rửa cho mụt ghẻ bằng
đủ thứ thuốc, mà mụt ghẻ có v́ thế mà
xẹp hơn hoặc sạch hơn được chút nào
đâu?
Trên đường t́m
đến xứ Thục, đă nhiều lần quốc
sư được nghĩ ngơi ban đêm trước
những mái tam quan, nhưng không ai nhận ra được
quốc sư, bởi v́ nhan sắc của quốc sư
tiều tụy, áo quần của quốc sư thốc
thếch, hôi hám… Ngày hôm kia, một chú
tiểu chùa Pháp Vân đă săn sóc cho quốc sư một
cách ân cần, cảm động. Chú
đă đem nước nóng cho quốc sư rửa
mặt và cháo trắng cho quốc sư lót dạ.Bây giờ
quốc sư đă tới được chân núi Cửu
Lũng.
Vị du tăng, chính là
quốc sư Ngộ Đạt-giật ḿnh. Có tiếng suối róc rách đâu đây.
Bỗng nhiên lời dặn của Kaniska lại vang lên trong
trí tưởng: “Từ dưới chân núi nh́n lên, thấy
chỗ nào có hai cây tùng vươn lên cao ngất, th́ đó là
nơi tôi ở…” Ngộ Đạt đưa
mắt nh́n lên. Lạ chưa, chót vót bên phía trái, mây mù
đă loăng dần và h́nh ảnh của hai cây tùng hùng vĩ
lộ ra, vươn thẳng dậy, ngọn tùng vẫn
c̣n khuất trong mây. Đích đó là nơi hẹn! Ngộ
Đạt cầm lấy chiếc gậy trúc, từng
bước, từng bước, ông t́m thế leo lên phía núi có dáng song tùng.
Sau một thời gian
vừa lết vừa trèo, Ngộ Đạt thấp thấp
thoáng sau cành lá xanh rờn cung vàng điện ngọc
của một ngôi phạm vũ trang nghiêm. Có tiếng chuông
gió thanh tao như tiếng gió lay động cây thất
bảo mô tả trong kinh Vô Lượng Thọ. Có tiếng
chim lạ, hoặc chính là tiếng Ca Lăng Tần Già.Lên tới
tam quan chùa, Ngộ Đạt gặp một chú tiểu.Hỏi
th́ biết đây đích thật là phạm vũ nơi
cư trú của tôn giả Kaniska. Chú tiểu vào thông
báo và tôn giả Kaniska thân hành ra cổng nghiêng tiếp.Kaniska
rạng rỡ như một vị bồ tát khiến
quốc sư Ngộ Đạt sụp xuống lạy.Tôn
giả đỡ quốc sư dậy, và d́u quốc sư
vào khách đường.
Sau một tuần trà mà
hương thơm làm chotỉnh táo cả giấc mộng
mười lăm năm trường, Kaniska hỏi
thăm về cận sự.Quốc sư Ngộ Đạt
tuy đă bốn mươi sáu, vẫn c̣n thấy tủi
thân như một đứa bé con, khi nghe người tri
kỷ hỏi đến thân phận ḿnh . Quốc
sư kể lại cuộc đời mười mấy
năm của ḿnh với thật nhiều chi tiết.Tôn
giả lắng nghe rất chăm chú, không hề ngắt
lời bạn, thỉnh thoảng lại thở dài, tỏ
ư thương xót. Nghe xong, tôn giả xin mụt ghẻ. Ngộ
Đạt đứng dậy vén ống quần cho bạn
xem.Mụt ghẻ như trừng mắt nh́n cả hai
người.Tôn giả gật đầu bảo quốc
sư buông ống quần xuống, rồi nói:
Không sao, dưới chân
núi có một ḍng suối tên là Giải Oan Tuyền, có
thần lực chữa được bệnh này.Tri
kỷ ngủ lại đây; sáng mai chúng ta xuống suối,
tôi sẽ vốc nước suối sửa cho tri
kỷ.Một ghẻ sẽ lành. Không có ǵ
đáng ngại. Chỉ cần vốc
nước rửa hai lần là bệnh của tri kỷ
sẽ lành hẳn.
Nói xong tôn giả đi
vào.Lát sau tự tay mang ra một chậu
nước ấm, một chiếc khăn và một
nắm muối, cười và nói:
-Tri kỷ đă từng
rửa ghẻ cho tôi suốt hai năm trời, bây giờ,
trước khi tri kỷ được nhờ
nước suối giải oan lành bệnh, tôi xin phép
được rửa ghẻ cho người lần
cuối cùng.
Ngộ Đạt toan
mở lời từ chối, nhưng ngước nh́n
cố nhân, ông biết không thể nào ngăn
được bèn im lặng đưa chân cho tôn giả
rửa. Một chân qùy xuống, một chân dẫm trên
đất, tôn giả nghiêng người cẩn trọng
rửa mụt ghẻ cho Ngộ Đạt.Bàn tay của tôn
giả đi tới đâu th́ thịt da Ngộ Đạt êm
dịu tới đó. Chỉ có nước
muối và một cái khăn thôi mà tôn giả đă làm
dịu đi bao nhiêu đau đớn của sau tháng
đường trường. Vị
quốc sư trẻ nh́n bạn rửa ghẻ cho ḿnh
một cách kính cẩn mà không biết mắt ḿnh đă nḥe
lệ. Kaniska rửa xong mụt ghẻ th́ bưng
chậu nước vào.Lát sau ông mang ra một chậu
nước khác và một tấm khăn khác. Ông
cởi áo cho Ngộ Đạt và lau tắm cho quốc sư.
Rồi ông lại lau tắm cả phần dưới thân
h́nh Ngộ Đạt.Không dám lên tiếng cản ngăn,
quốc sư Ngộ Đạt phải để cho bạn
tắm rửa từ trên xuống dưới, ngoan ngoăn
như một chú bé.Lau tắm xong, tôn giả vào lấy ra
cho Ngộ Đạt một bộ quần áo sạch của
chính ḿnh, và khởi sự mặc vào người cho
bạn.Bộ quần áo nhẹ, thơm ngát trầm
hương.
Tối hôm ấy,
Ngộ Đạt được ăn cháo trắng do tôn
giả Kaniska tự tay nấu lấy
mời bạn. Ăn xong, ông được tôn giả
đưa vào một liêu pḥng có giường chiếu
sạch sẽ thơm tho.Tôn giả chúc
ông yên giấc và hẹn ngày mai, sau khi uống trà, sẽ cùng
nhau xuốngg suối.
Buổi khuya, khi
tiếng chuông chùa đầu tiên ngân lên th́ Ngộ Đạt
thấy ḿnh không c̣n chờ đợi được
nữa.Cả đêm mụt ghẻ lại hành hạ ông
đau nhức như chưa bao giờ ông biết đau
nhức là ǵ. Đợi cho đến sáng th́ lâu quá.Quốc
sư bèn quyết định mở cửa xuống núi
một ḿnh.“Chiều qua ta có nghe tiếng
suối róc rách khi ngồi nghỉ dưới chân núi”
quốc sư thầm nghĩ. Trời
c̣n đầy sương nhưng Ngộ Đạt vẫn t́m
thấy được con đường ṃn đi
xuống núi. Đi một hồi lâu th́ ông
lại nghe được tiếng suối róc rách.Sau đó
ông đă t́m tới bờ suối.
Qúy trên một tảng
đá, ông xắn ống quần bên trái cho mụt ghẻ lô
ra. Ông thở những hơi thở thật dài, thật
nhẹ và nhiếp tâm quán niệm. Đây là gịng
Giải Oan Tuyền mà nước có thần lực
chữa được chứng bệnh của ḿnh. Ông tin tưởng nơi lời nói của tôn
giả Kaniska. Ông niệm Phật rồi cúi xuống
vốc nước trong ḷng hai bàn tay để phả
xuống mụt ghẻ mặt người.Nước
suối tê cóng hai tay.Run run, ông làm chảy đổ hết
một nửa vốc nước ra ngoài, chỉ c̣n có
một ít nước phả trúng vào mụt ghẻ.Nhưng
từng ấy nước phả vào mụt ghẻ cũng
đủ làm đau nhức đến xương tủy,
khiến ông ngă ra bất tỉnh trên bờ suối. Trong
cơn mê ông thấy một khuôn mặt đỏ tía, râu ria dựng ngược, khuôn mặt nh́n
thẳng vào ông hỏi:
Ngươi là
người học nhiều, hiểu rộng, vậy
đă từng đọc sách Tây Hán Thư chưa?
Ngộ Đạt quá
đổi ngạc nhiên, nhưng vẫn gật đầu
đáp:
Tôi có
đọc.
Có đọc Tây Hán
Thư chắc ngươi c̣n nhớ vụ án Viên Án và
Triệu Thố chứ?Viên Án dèm pha
thế nào mà khiến cho Triệu Thố phải bị chém
ngang hông ở chợ Đông; ngươi có biết không? Chao
ôi! Oan ức biết chừng nào/ Ngươi có biết
kiếp trước chính ngươi là Viên Án và ta chính là
Triệu Thố hay không? Ta bị
ngươi giết oan, nên đời đời ta t́m
ngươi để báo oán. Tuy nhiên trong mười
kiếp liên tiếp, ngươi làm cao tăng, giới
luật nghiêm tinh, do đó ta không thể nào t́m
được cơ hội trả thù.Nhân trong kiếp này
ngươi được hưởng sự đăi
ngộ của vua mà sinh tâm kiêu xa hao tổn đến âm
đức, cho nên ta mới có cơ xen vào làm hại
người được.Chính ta là mụt ghẻ của
ngươi.Chính ta là oan gia của ngươi đó.
Quốc sư nh́n kỹ
mặt người đối diện, kinh hải, toàn thân
toát mồ hôi hột. Ông định mở miệng lên
tiếng nói một điều ǵ, nhưng cuối cùng không
t́m ra được một lời nào cho nên lại thôi. Ông
thấy khuôn mặt đối diện đỏ tím kia bỗng nhiên dịu lại.Người
ấy nói giọng ḥa dịu hơn trước:
Thôi
ngươi khỏi cần nói năng ǵ cả. Trong bao nhiêu kiếp, ta đă đau khổ v́
mối oan cừu, và chính mối oan cừu đó đă d́m
măi ta vào cơi u minh dày đặc. Nay nhờ có tôn
giả Kaniska đem nước tam muội từ bi mà
rửa cho ta, mối oan cừu này từ đây sẽ
được cởi bỏ.Ta sẽ không c̣n theo ngươi để mà báo oán nữa.
Phần ngươi nhờ có phước bao lớn,
cho nên ngươi mới gặp được tôn giả
Kaniska, được tôn giả đưa tới suối
giải oan mà rửa sạch nghiệp xưa. Thôi từ nay
về sau giữa chúng ta không c̣n ai nợ ai nữa nhé.Hăy
vốc nước lên mà rửa thêm một lần thứ
hai nữa, amu lên!
Ngộ
Đạt bừng tỉnh choàng dậy. Ông lại qùy
xuống trên tảng đá bờ suối, cúi xuống
vốc đầy nước suối trong hai tay, phả vào mặt mụt ghẻ. Lần
này, cả vốc nước đầy được phả
tràn vào mụt ghẻ, gây đau nhức gấp bội
lần trước. Đau thấu cả tim can, ông lại ngă
ra bất tỉnh lần nữa trên bờ suối.Nhưng
trong cơn mê lần này Ngộ Đạt không thấy thân tâm
nhẹ nhàng, an ổn. Ông mơ thấy ḿnh đang đi
trong một khu rừng rậm, thoăn thoắt nhảy qua
các mô đất và các bụi rậm mọt cách nhẹ
nhàng, nhẹ nhàng như có canh bay, nhẹ nhàng như một
đứa trẻ đang chạy chơi trên đám cỏ.
Ông thấy ông là một đứa trẻ đang chạy
chơi trên cánh đồng mùa xuân, hoa tím hoa vàng nở
đầy trên cỏ biếc. Ông thấy ông bơi ngữa
trên một ḍng sông hai mắt theo dơi mây
trời xanh ngắt. Ông thấy ông là một đứa
trẻ mặc áo mùa xuân, chạy chơi trên một khu
đồi tuyết phủ. Trời lạnh, ông chạy vào
nhà, đưa hai tay sưởi ấm trên ngọn lửa
hồng, bên phải là bà ngoại ông đang khâu vá, bên trái là
mẫi thân ông đang nh́n ông âu yếm.Lửa ấm quá, ông
không c̣n có ư muốn chạy ra ngoài trời lạnh nữa.
Bỗng tiếng vượn kêu gần đấy làm ông
giật ḿnh thức dậy.Nh́n quanh, ông thấy ḿnh đang
nằm bên bờ suối, tiếng chim chóc ca hát vang cả
núi rừng. Nắng đă lên tự bao giờ đang
sưởi ấm mọi vật.Ngộ Đạt cảm
thấy ấm áp, nhẹ nhàng, khoan khoái. Ông choàng dậy,
vạch quần nh́n xuống bắp chân. Mụt ghẻ
đă héo mặt, bắt đầu đâm da non.
Mụt ghẻ đă lành.
Ngộ
Đạt đứng dậy. Ông cảm thấy
người đầy sinh lực, không cần cây gậy
trúc nữa. Ông nh́n quanh t́m con đường ṃn đẻ
trở lên chùa tạ ơn tôn giả Ca Nặc Ca. Nhưng
nh́n kỹ, ông chẳng thấy có con đường ṃn nào
cả.Lạ quá, chính ḿnh sáng nay đă từ con
đường ấy t́m xuống bờ suối đây mà.
Nhưng quả thực là không có con đường ṃn
nào cả. Xung quanh ông chỉ toàn là bụi cây
và tảng đá.Ngộ Đạt nhận ra một tảng
đá quen thuộc không xa chỗ ḿnh đang đứng.
Đó là tảng đá mà trên đó chiều qua khi
tới chân núi ông đă ngồi nghĩ. Ông
ngước nh́n lên núi. Mặt trời
ấm áp đă xua hết sương mù. Nhưng cung
vàng điện ngọc của ngôi tháp vũ ở đâu,
ông đưa mắt t́m măi mà không thấy. Hai cây tùng
vươn cao đọt lấp trong mây mà hôm qua ông đă thấy
rơ ràng, bây giờ cũng không c̣n dấu vết.Tất
cả những ǵ ông đă thấy đạ sống
suốt một đêm qua bây giờ đă tan biến như
một giấc mộng. Ông ngồi xuống trên một
tảng đá, hồi tưởng lại những diễn
biến của sự việc chiều qua, từ lúc nhận
ra sự có mặt của hai cây tùng, cho đến lúc t́m ra
ngôi phạm vũ, gặp mặt chú tiểu đồng và
hội ngộ với tôn giả ca nặc ca. Rồi
đến tuần trà, rồi đến ḿnh
được tôn giả rửa ghẻ, cho mặc một
bộ áo quần nhẹ, sạch, ngát hương trầm.
Ngộ Đạt thở dài, biết mối duyên kỳ
ngộ tới dây đă măn.Hướng về đỉnh
Cửu Lũng, ông nghiêng ḿnh cung ḱnh làm lễ tôn giả
Kaniska ba lần, ḷng thổn thức và tràn đầy tiếc
nuối.
Viện chủ Pháp Vân
Tự là Thích Tâm Thể cùng với hai vị đệ
tử t́m đến Thiền Tự Chí Đức vào một
buổi trưa nắng đẹp.Chùa Chí Đức là một
thảo am nhỏ ở chân núi Cửu Lũng, nhưng phong
cảnh rất tú lệ. Chủ nhân là một vị
tăng sĩ điềm đạm, tuổi trên bốn mươi,
pháp hiệu là Tín Cổ, ra đón ba thầy tṛ chùa Pháp Vân
tận ngoài cây cầu gỗ bắc qua ḍng
suối.Những cây tùng mà vị trú tŕ Chí Đức trồng
quanh am thuộc loại những cây tùng không rậm rạp
nhưng thân cây vươn cao, thẳng tắp. Cây nào
cây ấy đă lên tới mấy mươi thước,
xanh tươi, hùng vĩ. Từ lâu
viện chủ Thích Tâm Thể đă nghe nói có một am mây
tại núi Cửu Lũng vốn không xa thiền viện
Pháp Vân và mong có dịp đến viếng ngọn núi danh tiếng,
nhưng măi đến bây giờ nguyện ước
mới thành tựu. Nay được
đặt chân tới chốn phong cảnh kỳ tú này, ông
cảm thấy rất hài ḷng. Ông đưa mắt
nh́n ngọn núi hùng vĩ, đỉnh
lấp trong sương mù; ngắm những thân tùng
vươn thẳng lên không gian, nh́n ngôi am tự duyên dáng
nấp sau cành lá và gật đầu tán thưởng.
Ngôi khách chủ vừa
phân, th́ trà được tiểu đồng mang lên.
Tuần trà chưa cạn, khách nhận thấy trên án thư một cuốn kinh đang
được chủ nhân chép dở nửa chừng. Nét bút linh hoạt. Viện chủ Tâm Thể
xin phép cầm lên xem th́ thấy ngoài b́a kinh có năm chữ:
Từ Bi Thủy Sám Pháp.Người đặt kinh
xuống toan hỏi th́ trú tŕ bản am đă nói:
Đây là
một thứ nghi thức sám hối mà thầy tôi biên
soạn. Sám pháp này chưa được lưu hành
trong nhân gian, bởi lẽ đây là bản chép đầu
tiên.
Viện chủ Tâm
Thể hỏi, mắt không rời cuốn kinh:
Có phải
lệnh sư là người khai sơn chùa Chí Đức?
Chẳng hay danh hiệu của người là ǵ,
đại đức có thể cho chúng tôi biết
được không?
Trú tŕ Tín Cổ nhỏ
nhẹ:
Vâng, chùa Chí Đức là do
thầy tôi khai sơn. Thầy tôi tới dựng am tại
đây để an cư tu hành vào khoảng bốn
mươi năm về trước.Trong thời gian
thầy c̣n tại thế, am này không có
danh hiệu. Chỉ sau khi thầy tôi viên tịch, cảm ân
đức sâu dày của thầy, tôi mới đặt tên
thảo am này là Chí Đức Thiền Tự. Ngày thầy tôi tới
đây, quanh miền chưa có nhà cửa xóm làng chi
hết.Nhiều năm sau khi thầy tôi dựng am mới
có mấy gia đ́nh tiều phu tới chân núi này lập
nghiệp/
Viện chủ Pháp Vân
hỏi thêm:
Ngày lệnh sư
đến đây khai sơn lập am, chắc đại
đức cũng đă tới một lần với
người?
Trú tŕ Tín Cổ lắc
đầu:
Không,
thầy tôi tới núi Cửu Lũng một ḿnh. Tôi là
con trai của một người tiều phu đến
lập nghiệp tại chân núi này, có duyên may
được thầy tôi thu nhận làm
đệ tử, hồi tôi mới có bảy tuổi, không
biết chữ nghĩa ǵ hết. Tất cả chữ
nghĩa và Phật Pháp của tôi là hoàn toàn do thầy tôi truyền
dạy.Thầy tôi khen tôi viết chữ tốt nhưng tôi
thấy chữ củ thầy tôi mới thật là chữ
có thần.
Nói xong, trú tŕ Tín Cổ
nhấc một tập sách trên án thư
trao cho Viện Chủ Pháp Vân. Đỡ lấy tập sách,
viện chủ Pháp Vân nhận ra đó là bản chính
của Từ Bi Thủy Sám Pháp.Hẳn đây là bản chính
do tự tay soạn giả viết ra.Viện chủ Pháp
Vân thấy nét chữ tung hoành diễm lệ như một
đoàn phụng hoàng đang bay múa. Ông tắc lưỡo
buột lời khen:
Chữ viết
đẹp thật, đẹp thật.
Rồi ngửng lên, ông
hỏi trú tŕ Tín Cổ:
Tôi tin Sám Pháp này là
một sáng tác rất quư báu. Tại sao
đại đức không nêu cao danh của lệnh sư
vào trang đầu để lưu truyền hậu
thế?
Trú tŕ Tín Cổ chậm
rải nói:
Thầy tôi
không ghi tên ḿnh trên sách. Đă ẩn tích mai danh, không
muốn cho người đời này biết đến th́
c̣n ghi tên ḿnh lại cho người đời sau biết
để làm ǵ?
im
lặng một lát, rồi vị trú tŕ chùa Chí Đức nói
trầm ngôm:
Ngày thầy tôi mới
đến đây, cảnh trí xung quanh thật là hoang vu.
Chính thầy tôi tự tau lập am, khai phá, trồng khoai,
tỉa đậu và gieo lúa…Từ thuở nhỏ, thầy
tôi đâu có biết làm những việc đó. Ngày
mới đến ngồi bên bờ suối, bắp chân
đau nhức, thầy tôi kiệt lực, tưởng
không c̣n sống được…
T rong khi
vị trú tŕ chùa Chí Đức nói th́ h́nh bóng vị du tăng
bốn mươi năm về trước từ từ
hiện rơ trong kư ức của vị viện chủ chùa
Pháp Vân. Phải, hồi đó viện chủ là chú
tiểu Tâm Thể, mới mười sáu tuổi.Nét
mặt đoan nghiêm ấy, phong thái uy nghi ấy, chiếc
áo bạc màu ấy và cái mùi tanh tưởi ấy… Th́ ra vị du tăng ngủ dưới mái tam quan
năm xưa chính là người đă khai sơn chùa Chí
Đức này. Viện chủ Pháp Vân đứng dậy
chấp tay thành kính nói:
Bạch đại
đức, lệnh sư đă từng ghé thiền tự
và tá túc một đêm, cách đây bốn mươi năm
về trước.Chính bần tăng đă được
hân hạnh múc nước cho người rửa mặt và
dâng cháo cho người đỡ dạ. Đối với Chí
Đức, Pháp Vân tuy cách nửa ngày đường nhưng là
ngôi chùa gần gũi nhất, do đó
chúng ta c̣n có nhiều dịp qua lại cùng nhau. Xin
đại đức niệm t́nh xưa mà cho bần
đạo biết cao danh của lệnh sư,
người mà bần đạo đă đem ḷng qúy
mến từ ngày gặp gỡ.
Thấy dáng điệu
viện chủ Pháp Vân trang trọng và khẩn thiết, tru
tŕ Tín Cổ vội đứng dậy châp tay
thi lễ, đáp:
Xin Viện Chủ an
tọa, đừng lễ nghi quá mà chúng tôi thất
đức, tội nghiệp.Chúng tôi sẽ không dám dấu
diếm ngài.Trời đă chiều, đêm nay thế nào
viện chủ cũng phải ngủ lại thảo am Chí Đức. Chúng ta sẽ
đốt nến nói chuyện. Tôi sẽ kể
cho viện chủ nghe hết câu chuyện của thầy
tôi, vâng, chúng tôi sẽ không dám dấu diếm điều ǵ
với ngài.
Đêm đă
khuya, nhưng trú tŕ Chí Đức và viện chủ Pháp Vân
vẫn c̣n thức. Hai ngọn bạch lạp yên
lặng cháy trên án thư.Các vị
đệ tử đă đi nghỉ từ lâu. Rừng núi bên ngoài yên lặng quá. Sau khi
kể cho viện chủ Pháp Vân nghe về cuộc
đời của quốc sư Ngộ Đạt từ khi
gặp gỡ tôn giả Kaniska lần đầu cho
đến khi vốc nước rửa lành mụt ghẻ
bên ḍng Giải Oan, trú tŕ Tín Cổ đằng hắng
một tiếng lấy giọng và tiếp:
Cảm
ơn đức sâu dày của
Tu học là để
giải thoát chớ không phải để t́m cầu danh
lợi.Tôi hiểu lời giáo huấn đó, bởi v́ tôi
được thầy tôi kể cho tôi nghe về những
chuyển biến trong cuộc đời của
Ngài.Thầy tôi c̣n dặn đừng tiết lộ
chuyện này cho ai biết. Đáng lư ra, tôi phải vâng lời
thầy tôi. Nhưng đêm nay, tôi thấy tôi không thể nào
giữ được câu chuyện to lớn đó cho
một ḿnh tôi. Tôi thấy tôi không đủ sức.Tôi
không hiểi tại v́ sao.Có lẽ v́ viện chủ là
một người đă từng được gặp
gỡ thầy tôi, và như vậy, đối với tôi,
ngài là một người tri kỷ.Ngồi trước
viện chủ tôi có cảm tưởng gần gũi
thầy tôi.Kể cho viện chủ nghe rồi, tôi có cảm
tưởng tôi sẽ không có nhu cầu kể cho một
người thứ hai nào nghe nữa.Bây giờ, sau khi
đă cho viện chủ biết hành trạng của
thầy tôi, tôi thấy nhẹ hẳn người. Thôi
đêm đă quá khuya, tôi xin đưa viện chủ vào liêu
pḥng an nghỉ.Tôi đă sắp sẵn chiếu mền.Sáng
mai, tôi sẽ đưa viện chủ đi viếng tháp
thầy tôi và sẽ tŕnh viện những tác phẩm mà
người để lại.
Nằm trên
giường, viện chủ chùa Pháp Vân thao thức không
ngủ. Ngoài kia chắc sương
phủ hết miền thung lũng núi Cửu Lũng.Các loài
cầm thú trong rừng có ngủ không, mà sự im lặng
của núi rừng có vẻ linh hoạt thế này? Bốn
mươi năm là nhiều hay ít? Bốn
mươi năm qua ta đă làm ǵ? Học Phật,
chấp tác, ngồi tiền, giảng kinh, thuyết
pháp.Từ một chú tiểu mười sáu ta đă lớn
lên, vượt tiến, để bây giờ làm viện
chủ một thiền viện. Bốn mươi năm
bó chân, để cho sự việc ở chân núi Cửu
Lũng đi qua như nước chảy dưới
cầu. Đột nhiên chú tiểu Tâm Thể sống dậy,
hai mắt ướt đẫm.Ḿnh đă có duyên mang
chậu nước nóng cho quốc sư, nhưng ḿnh đă
không có duyên rửa ghẻ cho quốc sư như tôn
giả Ca Nặc Ca. Đột nhiên chú tiểu Tâm Thể không
muốn làm Viện Chủ nữa. Đột nhiên chú tiểu
Tâm Thể không muốn bị ràng buộc trong những giao
tiếp phiền toái “Bạch đại đức,
thưa viện chủ, khải Ḥa Thượng…” nữa.
Làm viện chủ th́ lấy đâu cơ hội trồng
rau, tỉa bắp, đốn củi và đi du hành kịp
thời đến chân núi Cửu Lũng. Núi Cửu Lũng
nào có xa xôi ǵ đâu,chỉ nửa ngày đường. Ấy thế mà phải đợi bốn
mươi năm mới t́m tới được. Chậm quá c̣n ǵ. Họa
chăng c̣n tiếng suối thầm th́. Viện
chủ Pháp Vân, à không, chú tiểu Tâm Thể lắng tai, cố ư nghe.Quả có tiếng suối róc
rách, càng lúc càng nhỏ, càng lúc càng mờ ảo. Và trong
cơn mơ, chú thấy hai cây tùng vươn cao, hùng vĩ trên sườn núi Cửu Lũng,
đọt tùng lẫn khuất trong mây.Hai cây Sequola
Sempervirens cao ngất từng không.
[1] “Chỉ tại
thử sơn trung, vân thâm bất tri xứ.Thơ của
Giả Đảo.