VẾT NHẠN
LƯNG TRỜI
Huỳnh
"Đất
trầm thủy, trủng bong lầy lội, âm thịnh
dương suy". Câu tuyên bố cộc lốc của
thầy địa lư già phán quyết cho vùng Tầm vu ngay từ
thời khẩn hoang lập nước có giá trị như
một sấm kư, ám ảnh dân làng, nhất là khi t́nh
trạng chênh lệch nam nữ trầm trọng bắt
đầu xuất hiện. Trẻ em trai có phần
hiếm hoi. Gia đ́nh nào may mắn được một
thằng cu giữa bầy con gái th́ thật là đại
phước.
Câu hát ru em thịnh hành một thời:
"Gái Tầm Vu đồng xu ba đứa
Trai Thủ Thừa cởi ngựa sang mua!"
phản ảnh phần nào t́nh trạng dư
thừa con gái ở Tầm Vu, tuy rằng "giá
cả" không rẻ mạt như vậy. (Thật ra, th́
vào thời khai hoang dựng nước, con gái miền Nam
ở bất cứ nơi nào, cũng được quí
trọng, bởi lẽ số di dân ở miền ngoài vào
lập nghiệp hơn 2/3 là nam giới).
Nhà họ Dương cũng không thoát
khỏi ảnh hưởng của định luật vô
h́nh đó. Dương phu nhân, sau khi sản xuất
"liền tù t́" mười cô tiểu thơ, gân
cốt ră rời, mà v́ thương chồng, vẫn
ước mơ gom tàn lực tạo một tác phẩm
hoàn hảo chót, một cậu út nối dơi tông
đường. Thôi th́ miếu nào, ông đồng bà
cốt nào?, hễ nghe tiếng linh thiêng th́ bà đều
đến để lễ bái cầu cạnh. Dương
ông cũng lo lắng không kém. Nghe ai chỉ dẫn thuốc
đại bổ nào dễ tạo hạt giống nam ông
đều thử. Ông lại mời thầy địa lư
về sửa hướng nhà, hướng bếp, thay
giường đổi chiếu, rồi cũng sửa
đổi luôn thói quen vợ chồng nữa. Trăm
phương ngàn kế chỉ để mưu cầu
một đứa con trai.
Có lẽ trời không nỡ phụ ḷng
người, phu nhân nằm mộng thấy phượng
hoàng vào nhà, th́ bắt đầu thọ thai. Niềm hi vọng
manh nha và ngày càng tăng trưởng. "Bắt
mạch" ước mơ của họ Dương, các
thầy bói toán mặc sức tung hoành. Kẻ xem
tướng, chỉ tay, người trổ tài dịch lư,
tử vi đẩu số, âm dương ngũ hành? để tán tỉnh gia chủ. Các bà
thầy, bà mụ cũng không vừa. Họ tranh nhau
vạch bụng, vạch ngực phu nhân để tiên
đoán: "núm đỏ quầng to sanh gái; núm săn sái
thon dài sanh trai", "bụng nhọn ra trai, bụng chày
bày ra gái", hoặc giả "Dạ trên sanh gái, dạ
dưới sanh trai", vân vân và vân vân. Trăm ngàn mồm
mép của cậu bé trai phương phi sẽ ra đời
vào đầu Xuân Qúi Mùi (nhằm Minh Mạng ngũ niên)
sắp tới. Nức ḷng hả dạ, Dương ông
tổ chức mừng Xuân thật linh đ́nh. Ông bao dàn
một gánh hát bội, trao giải thưởng múa lân,
ứng tiền tổ chức các tṛ vui nhộn: đấu
cờ, đẩy cây, đua xuồng, leo cột mở,
bắt vịt? để dân làng san
sẻ niềm vui với gia đ́nh ông.
Chuẩn bị cho giờ nở nhụy
khai hoa, làng trên xóm dưới trông ngóng tin để kịp
thời chúc tụng, đoàn lân lấp ló sẵn đầu
ngỏ chực hờ múa may lănh thưởng. Trong nhà heo,
gà, vịt đă trói sẵn chờ "mần
thịt", gia nhân lui tới rộn ràng, treo pháo lớn
pháo nhỏ, trong ngoài, chờ lệnh để châm ng̣i cho
nổ vang long.
Có tiếng trẻ sơ sinh khóc, cả nhà
nín thở chờ đợi. Dương ông chạy
vội vào pḥng. Cháu bé thật kháu khỉnh, nhưng
Dương ông đâu có thời giờ để ngắm
nh́n mặt mày. Ông chỉ châm bẩm vào một chỗ,
dụi mắt ngó tới ngó lui, t́m hoài vẫn không thấy
trái ớt con con, mà chỉ là con ṣ bé bỏng. Dương
ông hổn hển trở ra, lấp bấp: "dẹp
hết ! bỏ hết !", rồi
loạng choạng quỵ xuống trường kỷ
nằm thiêm thiếp.
***
Thất vọng khiến cho Dương ông
oán ghét Phật Trời, rồi đổ dồn hờn
căm lên đầu đứa con sơ sinh vô tội. Bóng
dáng mũm mịm dễ thương của bé Xuân chỉ
nhắc nhở Dương ông lại cảnh bẽ bàng,
khi Dương ông ba hoa quá lố về đứa con trai
thông minh xuất chúng, không bao giờ hiện hữu của
ông. Mới sanh được ba ngày, th́ bé Xuân đă
được giao cho vú Năm ? Vú Năm vừa sanh con th́
đứa nhỏ chết yểu, nên được thuê
làm vú ? cho bú mớm nuôi dưỡng,
với chỉ thị là chỉ quanh quẩn ở khu nhà
dưới dành cho gia nhân, hầu tránh chạm mặt ông.
Trong hoàn cảnh đó, bé Xuân chỉ có
thể sống lặng lẽ, hoà ḿnh với đám con gia
nhân, và với sự thương yêu tŕu mến của vú.
Cha th́ ghẻ lạnh, các chị khinh khi không nh́n nhỏi,
mẹ thỉnh thoảng mới ban vài cử chỉ
mến yêu nho nhỏ. Tuy nhiên, v́ không từng cực khổ
với con, t́nh mẹ con kém khắn khít, đă vậy
thấy bé Xuân lam lũ lăn lội với đám trẻ
nghèo hèn, không lộ được cái phong lưu, kiêu
kỳ? như các chị, nên bà cũng năn
ḷng, rồi ngày càng lơ là. Dù bị gia đ́nh hất
hủi, bé Xuân không hề oán trách, nàng vẫn thương
cha mẹ dù luôn luôn phải tránh xa chạ Bởi v́, chỉ
cần vin vào một lỗi rất nhỏ của em, th́
Dương ông đă có cớ để nổi giận đùng
đùng, đánh đập em tàn nhẫn như đối
xử với kẻ thù.
Thế là bé lăn lóc bụi đời
ở khu nhà gia nhân, ở sau hè, ngoài vườn, chớ đâu
dám léo hánh đến gian nhà lớn nguy ngạ Như
những trẻ nghèo, bé lấy đất sét nắn
đồ chơi hay lấy vành nia làm ṿng, đánh chạy
loanh quanh. Bé cũng theo bạn bè ra đồng bắt cua,
bắt cá, bẻ bông súng, ṃ ấu? hay đôi khi lén qua khuôn
viên chùa, hái chùm ruột, me dĩa (me non), me dốt (me chín)? về làm bữa tiệc mắm ruốc sau
vườn.
Các chị cô sanh năm một, nên chẳng
bao lâu, mấy cô đă trưởng thành một
lượt. Các cô chị ăn không ngồi rồi, quanh
quẩn trong nhà lớn măi sanh ra bực dọc, bịnh
hoạn? nhứt là nhàn cư vi bất
thiện, không việc chi để làm, thời các cô
chỉ rên rỉ, mộng mơ chuyện vợ chồng.
Biết bệnh trạng các con, Dương ông một
mặt lo săn rể, mặt khác rước thầy
đồ về, mượn tiếng cho con học chữ
thánh hiền, mà thâm tâm chỉ mong chúng bout rỗi rănh sanh tâm
bệnh. Thầy đồ gặp phải đám tiểu
thơ, quan được hầu hạ nuông ch́u nên
biếng nhác chẳng để tâm vào việc học hành,
nên thật chán chường. Thấy trong đám trẻ lam
lũ có bé Xuân, ngoan hiền, thầy gọi đến
dạy chơi, bất ngờ thâu nhận được
một học tṛ giỏi. Chỉ mới lên 8 tuổi, trong
ṿng một tháng, bé Xuân đă thuộc làu làu bộ Minh Tâm
Bảo Giám. Thầy đồ thương quí quá, đi
đâu cũng dẫn theo như một chú tiểu
đồng. Thầy đồ sang chùa đàm đạo
với thầy Hải Thiện, bé Xuân cũng đi theo
để nấu nước pha trà chăm sóc quí thầy.
Một hôm, sau khi nghe thầy trụ tŕ giảng về
lịch sử Đức Phật, th́nh ĺnh bé Xuân
đến bên thầy, kính cẩn thưa:
Thưa thầy! Con xin phép thầy cho con
được đi tu.
A!
Con gái mà cũng muốn thành Phật sao con? ?
Thầy mĩm cười trêu ghẹo.
Thưa thầy! Nếu ai cũng có Phật tính không phân
biệt trai hay gái, th́ con tu cũng có thể thành Phật.
Đúng không thầy.
Thầy Hải Thiện giựt ḿnh, không dám trả lời
khinh xuất, chẩm răi dạy:
Đúng vậy con! Trai hay gái, sang hay hèn, tu cũng
đều thành Phật cả. Con thấy không? Chùa làng ḿnh
có thờ tượng Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, chư bồ tát Văn Thù, Phổ
Hiền, Quán âm, Đia. Tạng?, ngoài ra, c̣n tượng 18
vị la hán, tượng tam thanh, tượng Quan Công, ông
Tiêu?, h́nh tướng khác biệt, đẹp có, xấu có? nhưng tất cả đều có Phật
tính, là PHẬT Đă THàNH hay PHẬT SẼ THàNH. Đó là nguyên lư, tất cả là một, mà một
cũng là tất cả đó con.
Ngẫm nghỉ hồi lâu, thầy dạy tiếp:
Con c̣n quá nhỏ để xuất gia. Vă lại, muốn
xuất gia con phải được cha mẹ cho phép.
Nhưng con có thể tu tại gia liền bây giờ, không
cần phải vào chùa cạo đầu mới tu.
Đoạn thầy Hải Thiện làm lễ quy y cho Xuân,
ban pháp danh nàng là Thanh Hôi, chữ Thanh thuộc thế hệ
thứ 41 gịng
Sau khi quỳ trước Phật đài nguyện giữ
giới không sát sanh, không trộm cắp, không nói dối,
không tà dâm, không uống rượu?, bé Xuân cương
quyết noi gương thầy trường chay để
nuôi dưỡng hạt giống từ bị Em ăn chay
âm thầm, nên chỉ có thể dùng rau đậu nấu
lẫn lộn với thịt, phương pháp mà em học
được khi nghe hai thầy luận đàm về
Lục tổ Huệ Năng. Em được hai thầy
dạy dỗ tận t́nh, về Nho lẫn Phật, nên sở
học của em ngày càng uyên bác. Thấy Xuân thiết tha
với nguyện vọng xuất gia cầu đạo,
thầy đồ và vú Năm, tuy không bằng ḷng, nhưng cuối
cùng vẫn chuyển thỉnh cầu của nàng đến
Thế là Xuân
bắt đầu tập sự làm điệu năm 14
tuổi, rồi được thầy cho thọ giới
sa di nị Gia đ́nh viên ngoại sống phong lưu
cạnh chùa, quên dần cô gái út, trừ vú Năm vẫn âm
thầm qua lại chăm nom săn sóc nàng. Thấy Xuân
vất vả đảm đương mọi việc
trong chùa, gánh nước, bữa củi, trồng rau, quét
dọn trong ngoài, và cơm nước phục vụ
thầy?, vú thật đau ḷng. Vú ước ao
được kề cận tu chung với cô chủ
để săn sóc cộ Tuy nhiên, v́ vú Năm ở trong
hoàn cảnh "ở đợ nát đời" ? anh Năm khi
đưa vợ đến ở vú đă nhận một
số nợ. Tiền lời của số
nợ được trả bằng công chị Năm
ở đợ. Chừng nào trả được
tiền vay th́ chuộc vợ về, bằng không th́
chị Năm phải ở đợ không công suốt
đời? nên chị không có chút tự
do để định đoạt số phận ḿnh.
Chùa Thiên Thai theo truyền thống thiền tông, tuy
vẫn chuyên cần công phu khuya và tốt, cùng trau dồi
nội điển thâm sâu. Sau thời công phu, là thời toa.
thiền, ngoài ra, sa di Xuân phải học
oai nghi và giữ chánh niệm theo những phương pháp
do thiền sư Độc Thể đề ra trong
quyển T́ Ni Nhật Tụng Dụng Thiết Yếu.
Đi đứng nằm ngồi hay làm bất cứ
động tác ǵ, đệ tử phải luôn giữ chánh
niệm bằng cách quán những câu kệ trong lành. Như
khi nghe chuông th́ quán:
"Văn chung thinh
Phiền nào khinh
Trí huệ trưởng
Bồ đề sinh?"
Khi vào nhà vệ sinh th́ quán:
"Đại tiểu tiện thới
đương nguyện chúng sanh
khí tham sân si
quyên trừ tội pháp"
Thanh
Hội thích hợp với phương pháp quán niệm
nầy. Có lần, quét lá me sân chùa, gặp lúc me vừa có trái
non, trẻ nít trong làng phá phách, quăng cành lá bừa băi, làm
cô sa di bực ḿnh. Nhưng khi vừa
cầm chổi quét đi một lược, th́ câu quán
niệm đă tự động hiện ra:
"Cần tảo già lam địa
Thời thới phước huệ sanh
Tuy vô tân khách chí
Diệc hữu Thánh nhơn hành."
Thanh Hội
giựt ḿnh nhớ lại, giữ vững chánh niệm,
mĩm cười thương yêu, không để giận
hờn, bực bội xâm chiếm tâm ḿnh. Từ đó, Thanh Hội hiểu ra là tu
thiền chính là tu tâm. Đi, đứng, nằm, ngồi,
trồng rau, gánh nước? mà xử
dụng được để tu tâm là thiền, c̣n
"toa. thiền cho mục
đất" nhưng tâm không chuyển, th́ cũng
thật là vô ích.
***
Sau hai năm tận t́nh dạy dỗ
đứa học tṛ cưng, thầy Hải Thiện
gởi đệ tử đến ni viện Phổ
Đà, tức chùa Cây Mai, Gia Định thành; để
nhờ sư bà Diệu Nghĩa hướng dẫn. Ni
Viện Tịnh Độ Tông nên không có câu kệ gịng phái,
các pháp danh của thầy lẫn tṛ đều bắt
đầu bằng chữ Diệu, khó phân biệt tôn ti
trật tự như thiền tông. Thật ra, tịnh
độ tông quan niệm pháp danh cũng chỉ là giả
tạm, nên các thứ giả khác: pháp tự, pháp hiệu,
vai vế gịng phái? lưu tâm cũng
được mà không lưu tâm cũng chả sao. Quan
niệm đó cũng rất thâm thúy, đầy thiền
vị. Ni viện ở nơi đô hội, tông tịnh
độ lại hợp với căn cơ quần chúng
thời mạt pháp, nên Phật tử thật đông đúc.
Ni sư Diệu Nghĩa vừa đức độ,
vừa có tài hướng dẫn và tổ chức nên đă
gầy dựng được phong trào tịnh độ
thuần thành tại vùng Cây Mai. Phật sự bề
bộn, lễ nghi giao tiếp phiền phức? mà sư bà vẫn giữ được
sắc thái an nhiên thanh tịnh, công phu cao dày thật
hiếm có. Thanh Hội có dịp để học nơi
vị thầy khả kính, từ nội điển,
đến đức độ, cách đối xử
"tùy duyên bất biến" của sư bà. Dĩ nhiên,
cô cũng phải dành phần lớn th́ giờ chia xẻ
trách nhiệm với 10 sa di ni cùng trang lứa để
hổ trợ thầy. Thanh Hội bắt đầu
phụ trách bếp núc, rồi hương đăng. Sau
đó, do tư cách chửng chạc, khoan hoà, lại tinh
thông chữ nghĩa, kinh điển, sư bà chọn cô làm
thị giả.
Cơ thể con gái khoảng tuổi 15
đến 17 phát triển thật nhanh. Thanh Hội không bao
lâu đă trưởng thành, một cô gái xinh đẹp khác
thường. Vẻ đẹp của cô có cái ǵ thùy
mị, trang nghiêm của hoa sen tinh khiết. Từ thân
thể nàng như toa? ra được
niềm ḥa ái khiến ai cũng yêu mến trong đạo
vị. Trong chùa, trừ hai cô sa di Diệu Kim và Diệu
Ngọc thường xầm x́ phê b́nh:
Thứ làm bộ làm tịch thấy ghét!
Mặt mày nó rồi sẽ lấy chồng chớ tu
giống ǵ ?
Nó nịnh thầy, thầy cưng cho làm thị giả,
chớ có biết ǵ đâu??
c̣n th́ ai cũng thương mến nàng.
Tuân theo chỉ dạy của sư bà, Thanh Hội tŕ
niệm lục tự Di Đà cẩn mật. Sáu chữ
"Nam Mô A Di Đà Phật" lúc nào cũng nối
liền không dứt trong tâm nàng, thành ra, dù nghe các sư
tỷ dị nghị, tâm nàng cũng đâu có khe hở nào
để xúc động như thường t́nh.
Đối với nàng, th́ tịnh độ và thiền
như nhau không khác.
Chùa lớn, không khí rộn rịp, không
được yên tịnh như chùa làng, và dĩ nhiên,
thỉnh thoảng cũng có đôi chuyện thị phi
phiền năo xảy ra, mà kẻ tu hành chỉ coi đó là
nghịch duyên thử thách ḿnh.
Thật ra, Phật tử cũng có hạng
"cầu danh cầu lợi", nhưng quá quắt
như gia đ́nh của viên lănh binh
Mặt mày coi lịch sự quá hén! Có tính tu
thiệt không đó!
Từ đó, Bạch công tử ngày nào cũng lân la
đến chùa để trêu ghẹo Thanh Hội. Hắn
không úy kỵ ǵ chốn ni pḥng, cứ xông đại
lục t́m ni cô, rồi sàm sở: "Em hai! Em hai
đẹp mà đi tu chi cho cực khổ ! Em hai theo qua mà
an hưởng giàu sang!". Thanh Hội chỉ biết
nhẫn nhục yên lặng hay lẫn trốn vào pḥng
thầy để được yên thân. Có lần,
thấy công tử nói năng sổ sàng quá, ni cô nhỏ
nhẹ thưa: "Tiểu ni nguyện suốt đời
tu hành. Xin công tử đừng phá phách tiểu nị
Tội nghiệp". Chỉ có thế mà Diệu Kim,
Diệu Ngọc đă to nhỏ với nhau là Thanh Hội
phạm dâm giới v́ đă nói chuyện với trai, rồi
cả hai đoan quyết là sớm hay muộn ǵ, nàng
cũng sẽ hoàn tục.
Trước nay, Thanh Hội chưa bao giờ lâm vào hoàn
cảnh phiền năo lạ lùng như thế nầy. Trong
buổi công phu sáng, tụng Lăng Nghiêm thần chú, ni cô
chân thành mong cầu Đức Phật từ bi gia hộ
cho cô thoát khỏi nạn ma vương nầy. Ngờ
đâu, tụng kinh xong, từ chánh điện xuống
hậu liêu, bỗng dưng thấy viên lănh binh
Bất th́nh ĺnh, quan bà gọi sư bà, theo
lối gọi con cháu:
Nè ! Bà thầy, - rồi chỉ tay vào
mặt Thanh Hội? Tui đă nói với bà thầy là cái con
nầy mà tu hành cái quái ǵ ? Chính cái con mặt trằng
nầy dụ dỗ thằng rể của quan mấy ngày
nay đi đâu mất biệt? Con kia ! mầy
dấu công tử chốn nào? ? Dừng lại lấy
hơi, bà có vẻ thêm tức tối, đập bàn đùng
đùng ? Hừ ! Cái đồ dâm đăng mà giả bộ tu
hành. Chùa nầy chứa chấp thứ dâm đăng phá
hoại gia cang người ta, th́ bà thầy phải
chịu trách nhiệm hết?
Quan ông cũng trề môi gằn từng tiếng:
Chùa nầy lập được th́ phá cũng
được. Quan đă có công lập, quan muốn
đuổi ai th́ đuổi?
Hai vợ chồng thi nhau la hét, chửi bới đủ
điều không dành cho ai chen vào một lời giải
thích. Rồi chừng như "đă nư" rồi,
th́ cũng ầm ầm dẫn đám tùy tùng đi mất.
Thật ra, quan bà hiểu rơ tính nết của cậu
rể dâm đăng, bỏ nhà bỏ cửa vui chơi
thỏa thích chốn thanh lâu là việc quá tầm
thường. Nhưng khi được mật báo công tử
đến chùa ghẹo người, sẵn ganh tị
với nhan sắc Thanh Hội và ấm ức ni sư
Diệu Nghĩa "ngoan cố" khó điều
khiển, nên quan bà đến chùa chửi bới chơi cho
bỏ ghét.
Sư bà lộ vẻ buồn trong một thoáng, rồi
giữ lại vẻ b́nh thản thường nhựt,
lặng lẽ vào pḥng đóng kín cửa. Các đệ
tử ai cũng áo năo thẩn thờ. Thanh Hội
để nước mắt chảy ràn rụa. Cô đă
học để giữ tâm ḿnh trong chánh niệm, không
để ngoại cảnh chi phối, nhưng lần
nầy, cô chới với, thụ động, để
sầu đau chất ngất trong ḷng. Đau khổ quá, cô
bỏ buổi thọ thực và buổi công phu chiều,
mênh mang trong đầu ư nghĩ chết. Ôi! Tạo hoá
trớ trêu sanh làm chi cái gương mặt thanh tú nầy để
cho người yêu kẻ ghét! ôi ! cái gương mặt nầy chẳng có ích
lợi ǵ chỉ là nguyên nhân của phiền muộn,
chướng ngại việc tu hành. Cô ước mong sao chl
ḿnh được xấu xí, để có thể tu hành
một cách b́nh thường như mọi người.
Thanh Hội chợt nhớ tới chất độc
của mủ xương rồng, có thể làm da thịt
lở lói như phong cùi, nên cố quyết tâm ra sau
vường chùa, chặt xương rồng cào mặt,
xức mủ vào để phá hủy gương mặt
ḿnh. Tay Thanh Hội vừa sắp đưa lên mặt, th́
bị nắm lại rồi có tiếng của sư bà,
thật thương yêu:
Họ⩠con! Con không phải tự hành
hạ xác thân con như vậy? Thầy có biện pháp an
toàn cho con.
Sáng hôm sau, sư bà Diệu Nghĩa may cho nàng một khăn
đội đầu? loại mủ che
đầu đặc biệt của nỉ với
đặc điểm là khăn che kín cả mặt,
chỉ chừa hai lỗ nhỏ nơi tầm mắt. Đoạn
sư bà đích thân đưa Thanh Hội lên đến núi
Châu Thới, Phổ Tịnh am, để xin Am chủ, ni sư Viên Đức cho nàng nương náu.
Tuân lời dạy của am chủ, Thanh Hội đội
khăn che mặt thường trực, để tránh
rắc rối lôi thôi bởi khách tham quan chùa.
Tổ chức theo thanh qui của Bách Trượng thiền
sư " Nhất nhựt bất tác, nhất nhựt
bất thực", các ni cô chia nhau làm lụng rất
cực khổ để tự lập, chớ không dựa
vào sự yểm trợ của Phật tử. Đất núi rất hẹp, cằn cỗi,
thiếu phân, thiếu nước? nên
việc trồng rau, bắp, đu đủ? để có hoa lợi thật gian nan.
Gặt hái xong, lại phải gánh xuống núi, giao cho các
bạn hàng mua sỉ. Công phu th́ thật nhiều, mà tiền
thu vào th́ chỉ đủ mua gạo,
muối, tương? qua ngày. Tuy nhiên, ai
cũng hiểu làm lụng là một phương pháp
để tu, nên khổ thế nào cũng không sanh ḷng chán
nản. Những ngày đầu ở núi, đi chân không
bước trên vùng sỏi đá bén nhọn, vai gánh
nước nặng trĩu, Thanh Hội bị rách nát
cả chân, phải kéo lê từng bước. Tuy
nhiên, ở cỏi "ta bà kham nhẫn" nầy, cực
khổ ǵ rồi cũng quen dần đi. Chỉ sau
hai tháng "huấn nhục", ni
***
Mùa thu
năm Dần, Thanh Hội được am chủ báo tin
quư thầy, sau khi hội ư, đă chấp nhận cho ni cô
được thọ giới tỳ kheo ni tại
Đại giới đàn THIêN THAI, do bổn sư ni
Từ ngày mùng 10,
sư bà Diệu Nghĩa đă cẩn thận cho
người đón Thanh Hội về Phổ Đà ni
viện, rồi sau đó, sư bà đích thân hướng
dẫn 18 nữ đệ tử, gồm 5 phụ giới
sư, 6 giới nữ tỳ kheo ni, 3 giới tử sa di ni
và 4 giới tử Bồ tát tại gia, đi tham dự
Đại giới đàn.
Các
phái đoàn lần lượt vân tập về Tầm Vu
từ ngày 13. Đến nơi, mỗi người đều
nhận lănh một trách vụ để tiếp ban tổ
chức hoàn thành đại lễ. Qúy ni
lại rất bận rộn với công tác "ẩm
thực" cho hàng ngàn người, nên Thanh Hội không có
chút rănh rỗi nào để hầu chuyện bổn sư
hay thăm thân nhân cạnh chùa. Ngày hôm sau, chư
tăng ni bắt đầu hội họp,
lược duyệt chương tŕnh, cung an chức
sự, rồi đến thủ tục chất vấn
luật nghi các giới tử. Buổi họp thu hẹp,
nhưng cũng đă gồm trên 150 tăng ni tham dự, v́
ngoài 52 giới tử, mà 12 vị là cư sĩ, lại c̣n
"tam sư, thất chứng", các vị tuyên luật
sư, thỉnh dẫn sư, tả hữu giám đàn, và
phụ giới sư nữa. Ni
Sáng
sớm ngày rằm tháng giêng, Phật tử đă đông
đủ tề tựu. Nghi lễ chánh thức bắt
đầu, tuần tự từng tiết mục tiếp
nối nhau trong trang nghiêm và đạo vị. Giới
tử tỳ kheo ni bắt đầu
theo thứ lớp được khai đạo. Ni
Đại
giới đàn tiếp nối với việc trao truyền
Bồ tát giới, Sa di giới, sau đó
đến phần thuyết pháp và bế mạc trong thành
tựu và phấn khởi của mọi ngừơi.
Sáng
hôm sau, các phái đoàn Phật giáo lần lượt ra
về. Thanh Hội xin phép được ở lại chùa
Thiên Thai vài ngày, trong khi sư bà Diệu Nghĩa
hướng dẫn 17 nư đệ tử đi
đường bộ hướng về G̣ Công, để
viếng thăm Từ An ni viện.
Phái đoàn
mới khởi hành vào giờ Măo, mà giờ Th́n đă
thấy người xa phu, mặt mũi bơ
phờ, hộc tốc chạy về, vừa trao thơ cho
Thượng Toa. Hải Thiện, vừa hổn hển
giải thích:
Đại nạn ! Đại nạn !
Bị cướp bắt hết trơn
rồi thầy ơi.
Bức thơ chỉ có mấy hàng vắn tắt:
"Lục Thiên anh hùng gởi đại sư Hải
Thiện.
"Mười
bốn bà vải và bốn mụ đàn bà đă bị chúng
anh hùng bắt giữ.
"Ra lệnh
cho đại sư phái ni
"Nếu không. Giờ
ngọ ngày mai là giờ trảm quyết 18 nhân mạng.
Đại sư hăy cho người đến thu nạp xác chết về cầu siêu.
"Diệu Kim
thảo theo lệnh của Thiên ư
Đại Vương"
Phía dưới lại có h́nh vẽ tuy vụng về,
nhưng cũng diễn tả được h́nh ảnh
một ngừơi trên cây rơi xuống giữa hai con
hổ.
Nguyên cách đường đi G̣ Công chừng hai dặm, có
một đầm śnh lầy lội rộng lớn,
mọc đầy dừa nước, loại lấy lá
để lợp nhà. V́ quá rộng không khai thác, đầm
nước lại sâu, cây dừa nước sinh trưởng
khá mạnh, lá to che hết ánh sáng, nên người dân
gọi là "đám lá tối trời". Người
b́nh thường chỉ có thể đến mé đầm,
đốn mớ lá ở ngoài chớ không ai đủ can
đảm lội sâu vào giữa đầm, śnh mềm
đến ngực, mà lại tối tăm không t́m ra
phương hướng. Thế nhưng bọn
cướp lục thiên: Đại ca Thiên ư, cùng 5 đàn em:
Thiên Thân, Thiên Nhản, Thiên Nhỉ, Thiên Tỷ, Thiên
Thiệt, gốc là bọn đốn lá chuyên nghiệp, rành
địa thế, giỏi vơ, lại luyện
được lối chạy nhảy như bay trên tàu lá?,
nên chúng dùng đầm lầy làm sào huyệt, xuất
biến xuất hiện, quan quân bao vây hàng tháng trời
cũng không tiêu diệt được. Từ đó,
bọn cướp càng làm lộng. Chúng đón
đường bắt khách thương nạp măi lộ,
và giết người không gớm tay
nếu ai chống lại chúng. Qúi ni cô nghèo
không nghĩ đến chuyện bị cướp bóc, không
ngờ, chúng nghe người ca tụng về nhan sắc
tuyệt vời của ni
Thơ do sư
tỷ Diệu Kim viết theo lệnh của bọn
cướp, nhưng h́nh vẽ có lẽ là sáng kiến riêng,
nhằm gợi lại câu chuyện tiền thân Đức
Phật. Đức Phật bị hổ dữ
rượt phải trốn trên cây. Hổ mẹ chờ
mồi măi không được, đói quá nên quên cả t́nh
mẫu tử, định vồ cả hổ con ăn thịt. Đức Phật không nở
thấy cảnh hổ con bị giết, buông tay xuống tự tử để hai con
hổ có thức ăn.
Diệu Kim dùng
tranh khích lệ kẻ khác hy sinh tánh mạng để
cứu ḿnh, kể ra, th́ ḷng dạ có chỗ ngoắt ngoéo,
nhưng Thanh Hội vốn thực thà trung hậu, nghĩ
sư tỷ có hảo ư chỉ giáo ḿnh, nên chấp tay
cảm tạ và nguyện xin tuân theo. Thật ra, Thanh
Hội vừa thọ giới Bồ tát. Sư cô đă
nguyện ban vui cứu khổ chúng sanh. Nếu chỉ
cần cứu một mạng người mà sư cô
chết, sư cô cũng không từ nan.
Huống hồ, sư cô có thể đổi mạng
sống cho đến 18 người, trong đó lại có
ân sư, th́ dĩ nhiên, sư cô không có chút ǵ ngần
ngại. Do đó, dù có ư kiến ngăn cản, việc
lẽ, bọn cướp tráo trở khó lường,
sư cô vẫn nhất quyết nhờ người xa phu
đưa đi ngay đến chốn hang hùm.
Xe ngựa
dừng lại ở bên đường, và sư cô
phải đi bộ thêm cả dặm đường trên
đồng khô lồi lỏm, để đến căn
nhà là dùng làm điểm hẹn của bọn cướp.
Bọn
cướp vừa thấy sư cô là đă mừng rỡ
reo ḥ. Thiên Thân, Thiên Nhản vồ vập tranh dành
người đẹp. Sư cô b́nh tỉnh, rút dao nhọn
dí vào ngực, nghiêm nghị nói:
Tiểu ni đến đây là tuân theo điều
kiện trao đổi người. Nếu quí vị
chưa thả hết các tù nhân mà đụng chạm
đến thân thể tiểu ni, th́
tiểu ni quyết tâm tự sát.
Xin tuân lệnh người đẹp ?
Thiên ư cười hềnh hệch ?
Bọn anh hùng nầy đâu có sai lời.
Thế là cả bọn chia nhau mở trói
thả đám tù nhân. Tù nhân mừng khôn xiết,
mạnh ai nấy chạy thoát thân, không người nào
nhớ tới vị thầy khả kính vẫn c̣n đang
thẩn thờ tại đó. Biết ư sư bà không nở
bỏ đi, sư
Xin thầy thương con đi ngay đi. Phật
tử Cây Mai rất cần thầy hướng dẫn.
Thầy ngần ngừ th́ cả hai cùng chết chớ
chẳng ích chi.
Sư bà công phu hàm dưỡng đă cao, ngày trước
từng bị đám
Chí nguyện độ sanh, quên bản thân ḿnh để
cứu người đă tạo cho sư cô sức
mạnh phi thường, b́nh tỉnh đối đầu
với bọn cướp. Cứu người an toàn
rồi, nghĩ đến phận ḿnh trong tay
bọn cướp, sư cô bất giác rụng rời. Bao
nhiêu ư nghĩ đua nhau xuất hiện: "ôi! Nếu
bị chúng giết chết hay tùng xẻo th́ may quá, chớ
c̣n chúng hành hạ bằng sự dâm đảng th́ làm sao ta
chịu nổi. Ôi ! ta
có nên tự tử không? Tự tử có phạm giới sát
không? Có phạm giới vọng ngữ v́
dối gạt bọn chúng không? ôi !
có lẽ kiếp nào đó, ḿnh đă
từng hiếp đáp người, nên kiếp nầy
mới lâm vào hoàn cảnh nầy".
Chợt thấy
một cánh nhạn trên trời, sư cô liền nghĩ
tiếp: " ôi kiếp phù sinh ngắn ngủi như
vết nhạn bay, vô tung tích, có đáng
ǵ đâu? Ta đă nguyện xả thân cứu độ
chúng sinh, th́ thân xác này đă kể là không. Bị giết hay
bị đánh đập, trong sạch hay nhơ bẩn, cũng
là không. Có ǵ đáng phải băn khoăn hay sợ hăi !".
Tự nhiên,
sư cô thu hồi lại thu hồi
lại hùng tâm, b́nh tỉnh quăng dao xuống đất
rồi nói:
Tiểu ni xin giữ tṛn lời hứa. Bây giờ th́
quí vị có thể hành hạ tiểu ni
thế nào cũng được. Tiểu ni
không oán trách giận hờn.
Bọn Thiên Thân, Thiên Nhăn chộn rộn tay
chận, nhưng thấy đại ca chúng khoát tay, nên
đành dừng lại.
Ha ha ! ? Thiên ư cười đắc chí ? Bọn ta lục thiên huynh đệ là
anh em đồng sanh cộng tử, có phước cùng
hưởng, có họa cùng chia. Nàng là vợ, th́ cũng là
vợ chung của 6 anh em ta, sẽ
được sung sướng trọn đời. Thôi ! Hăy cởi bộ áo tu hành
ra đi, để cùng ta vui thú. C̣n
cưởng lại th́ đừng trách bọn ta vũ phu
lỗ măn.
Sư cô không để tâm đến lời suồng
sả vô nghĩa của bọn cướp, mà điềm
nhiên đem ḷng tư bi vô lượng quán sát họ. Họ
chỉ là những kẻ tội nghiệp đáng
thương, thiếu hạt giống đạo
đức nên bị dục vọng sai khiến trở
thành mù quáng, lầm lạc. Ḷng từ bi thúc
đẩy sư cô t́m phương cảm hóa họ.
Sư cô lặng yên nhập định, quán thân ḿnh chỉ
là một cái bao chứa đựng đầy vẩy 36 món
dơ dáy thối tha: máu, xương, tim, ruột, gan,
phẩn, mồ hôi, nước tiểu? Rồi sư cô
lại quán ḿnh là một cái thây ma vừa chết, mặt
mũi bầm xanh, thây ma lần lần sinh chương,
nức nẻ chảy nước vàng lầy thúi, ḍi thú
đục ăn, trơ lại nhúm xương tàn.
Mây
đen từ đâu kéo đến che khuất mặt
trời. Trong bóng tối lập loè, bỗng mơ hồ có
tiếng sư cô vọng lại:
Nầy các hành
giả! Hăy quan sát cho kỹ bộ xương trắng
hếu biết đi nầy, có đáng để quí vị
yêu mến chăng?
Lạ lùng thay, sư cô đang đứng mĩm
cười mà bọn cướp hung ác th́ rung lẩy
bẩy, cúi đầu quỳ lạy không ngừng,
miệng th́ van xin:
Lạy sư phụ! Xin sư phụ mở lượng
hải hà tha tội chết chúng con!
Có lẽ do chí nguyện độ sanh bao la, nên định
lực của sư cô mạnh mẻ, khi sư cô thành
khẩn quán niệm như thế nào, th́ bọn
cướp thấy hiển hiện trước mắt
chúng h́nh ảnh đó. Bọn chúng thấy sư cô trở
thành một túi đựng đủ thứ dơ dáy
bầy nhầy, kế đó sư cô chết đi, thân
thể từ bầm xanh cho đến khi śnh thúi rồi
trở thành nắm xương tàn, là đă kinh hồn
hoảng vía, tay chân run rẩy muốn
chạy trốn đi mà không lết nổi. Cho đến
khi bộ xương biết đi, phát ra tiếng nói và
từ từ đi tới, th́ bọn chúng sợ quá ngă
sụm xuống, quỳ lạy xin tha chết mà thôi.
(Hiện tượng trên đối với
thiền gia là việc rất b́nh thường. Ngay
những kẻ ngoại đạo, như các fakir Ấn
Độ, định lực cạn cợt, tham lợi
háo danh cũng c̣n có thể biểu diễn. Các nhà thôi miên,
định lực càng hẹp ḥi, có người cũng c̣n
tạo được giả cảnh hiện tiền.)
Thấy bọn
chúng thành tâm, sư cô bảo:
Qúy vị gây nên
tội, th́ quí vị tự sám hối, làm lành để
chuộc tội ḿnh. Tiểu ni không
buộc tội ai và cũng không tha tội cho ai
được.
Trời đất bỗng nhiên sáng lại. Sư cô
ngồi kiết già, chấp tay nghiêm
chỉnh, thuyết kinh Nhân Quả Báo Ứng cho bọn
cướp.
Bọn cướp trước nay hành động gian ác
chẳng úy kỵ chị Nay nghe pháp mới biết tội
ác ngập trời, dầu có bầm thây ra trăm mảnh
cũng chưa đáng, sợ hăi vô cùng. Chúng chỉ biết
vâng lời sư cô, nguyện bỏ ác làm lành, đem thân
ḿnh "làm trâu ngựa" để phục vụ
đồng bào, chuộc lại lỗi lầm ngày
trước.
Độ
bọn cướp xong, sư cô trở về. Sáu tên
cướp bịn rịn thầy, đi theo
đưa tiễn. Vừa đến đầu lộ, th́
may quá, có tiếng xe ngựa lộc
cộc chạy đến. Người khách thương
vừa thấy bọn cướp chận xe
lại, đă hoảng hồn nói lấp vấp:
Bẩm
đại vương ! Xin đại
vương thu nhận? thu
nhận? thu nhận? - hắn
cà lăm cà lặp v́ không biết nên đề nghị
tiền măi lộ bao nhiêu cho vừa, nhiều th́ tiếc
quá, c̣n ít th́ sợ bọn cướp nổi giận -
Không ! Không ! Bọn ta chỉ nhờ quư
vị đưa sư phụ về Tầm Vu mà thôi, - Thiên
ư lễ phép ?
Rồi chúng chắp tay kính cẩn hướng về sư
cô:
Chúng con vâng lời sư phụ sẽ giải tán nội
ngày naỵ Tội chúng con nặng nề, không biết
đến đời kiếp nào mới chuộc lại
tội xưa.
Đức Phật dạy : "Quăng
đao đồ tể, tức khắc thành Phật",
các Phật tử không nên quá bận tâm với lỗi
lầm xưa mà nhục chí tu hành. Điều nên nhớ,
đao đồ tể là tâm đao. Chớ tay
không cầm đao nhưng tâm ôm ấp đao th́ tu cũng
vô ích.
Xe ngựa đă từ từ chạy đi, mà các tên
cướp vẫn c̣n quỳ lạy thầy măi. Ni cô
dừng lại chùa Thiên Thai tŕnh bày nội vụ cho bổn
sư, rồi trở về thăm nhà.
Bọn xa phu và khách thương, mồm năm miệng
mười, chứng kiến cảnh bọn cướp
tùng phục sư cô, vội vă loan tin cho bà con lối xóm. Có tên c̣n dám quả quyết rằng sư cô là
đệ tử chân truyền của
Sư
cô về nhà thật đúng lúc. Ông bà thân sinh reo mừng
đón cô con gái quí tài ba xuất chúng. Lần
đầu tiên trên đời, Dương ông mới nh́n
kỹ con ḿnh. Chao ơi ! út
Xuân đẹp quá ! Dễ thương quá !
tài ba quá ! Sao giống ḿnh quá
!!! Mừng vui thật lớn, nhưng Dương ông lăn xăn mà vẫn khó mở lời
với đứa con mà trước kia ông lạnh nhạt.
Dương bà th́
ôm chầm lấy con, líu lo tíu tí:
Má nhớ! Má
thương con qúa! Sao con về thăm má trễ như
vậy?
Rồi ngắm nh́n con gái giây lâu, ba la lớn:
Chèn đét ơi! Sao nó lịch sự, nó giống tui hồi
đó quá hén! Hén ông!!!
Thưa ba má. Con mừng ba má vẫn
mạnh khoẻ. Lúc nào con cũng nhớ ba má và cảm
tạ ba má đă cho con xuất gia học đạo. Sau con
xin ba má cho Vú Năm được tự dọ Vú đă
ở nhà ḿnh đến 20 năm là quá đủ rồi?
Được rồi! Có con xin th́ ba má đồng ư ngaỵ ? Hai ông bà tranh nhau
chấp thuận. ? Rồi xây qua vú, bà nói:
Nè Năm! Cô út xin cho bây đó! Bây được tự do
muốn đi đâu th́ đi.
Thưa hai
Sư cô ở lại nhà đôi giờ, cố gắng
thuyết pháp cho cha mẹ về thuyết nhân duyên, và
hướng dẫn cả nhà tu tịnh độ. Sau
đó, sư
Hậu sự như thế nào?
Nhạn quá trường không!
Đoạn sư cô lên chánh điện, toa. thiền
mà viên tịch.
Than ơi !
Sư
***
Theo ẩn ngữ không lư
h́nh tích của sư cô, thầy Hải Thiện tổ
chức lễ hỏa thiêu thật đơn giản.
Nhưng tiếc xá lợi ngũ sắc,
thầy giữ lại phân chia cho Thiên Thai, Phổ Đà và
Phổ Tịnh đồng giữ. Thương tiếc
sư cô không nguôi, người dân ghép tên họ với pháp
danh sư cô, thành
Điều lạ lùng, là từ khi làng mang địa danh
"à? ơ ! Gái
Trai Thủ Thừa mấy hạng xứng đôi".
---O0o
---
Ghi chú:
TẦM VU: Địa danh xưa. Nay thuộc xă
Lịch sự: đẹp
Trích từ bài kệ của HƯƠNG HẢI thiền
sư (1628 ? 1715)
Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ư
Thủy vô lưu ảnh chi tâm
Nhạn liệng giữa hư không
Bóng ch́m dưới nước
Nhạn không để dấu vết lại
Nước chẳng lưu bóng làm chi
(trích VNPG Sử Lược, T.T.Mật Thể)